Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tuyển đế hầu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 38: Dòng 38:
[[Frankfurt]] thường xuyên là địa điểm tổ chức bầu cử, kể từ thế kỷ XV trở đi, nhưng các cuộc bầu cử cũng được tổ chức tại [[Cologne]] (1531), [[Regensburg]] (1575 và 1636), và [[Augsburg]] (1653 và 1690). Một Tuyển đế hầu có thể đích thân xuất hiện để bỏ phiếu hoặc có thể uỷ nhiệm cho một Tuyển đế hầu khác bỏ phiếu thay mình. Thông thường, một đại sứ hoặc đại diện của Tuyển đế hầu sẽ thay mặt; Chứng nhận của những người đại diện như vậy sẽ được thông qua bởi [[Tuyển đế hầu Mainz|Tổng giám mục Mainz]], người chủ trì buổi lễ. Các cuộc thảo luận được tổ chức tại tòa thị chính, nhưng việc bỏ phiếu sẽ diễn ra ở nhà thờ lớn Frankfurt, hay ''Wahlkapelle'', đã được sử dụng cho các cuộc bầu cử. Dưới thời Golden Bull, đa số Tuyển đế hầu đã đủ điều kiện để bầu ra vua và mỗi Tuyển đế hầu chỉ được bỏ một phiếu bầu. Các Tuyển đế hầu được tự do bỏ phiếu cho bất kỳ ai họ muốn (bao gồm cả chính họ).
[[Frankfurt]] thường xuyên là địa điểm tổ chức bầu cử, kể từ thế kỷ XV trở đi, nhưng các cuộc bầu cử cũng được tổ chức tại [[Cologne]] (1531), [[Regensburg]] (1575 và 1636), và [[Augsburg]] (1653 và 1690). Một Tuyển đế hầu có thể đích thân xuất hiện để bỏ phiếu hoặc có thể uỷ nhiệm cho một Tuyển đế hầu khác bỏ phiếu thay mình. Thông thường, một đại sứ hoặc đại diện của Tuyển đế hầu sẽ thay mặt; Chứng nhận của những người đại diện như vậy sẽ được thông qua bởi [[Tuyển đế hầu Mainz|Tổng giám mục Mainz]], người chủ trì buổi lễ. Các cuộc thảo luận được tổ chức tại tòa thị chính, nhưng việc bỏ phiếu sẽ diễn ra ở nhà thờ lớn Frankfurt, hay ''Wahlkapelle'', đã được sử dụng cho các cuộc bầu cử. Dưới thời Golden Bull, đa số Tuyển đế hầu đã đủ điều kiện để bầu ra vua và mỗi Tuyển đế hầu chỉ được bỏ một phiếu bầu. Các Tuyển đế hầu được tự do bỏ phiếu cho bất kỳ ai họ muốn (bao gồm cả chính họ).


Các Tuyển đế hầu sẽ soạn thảo ra một ''[[Wahlkapitulation]]'' ([[tiếng Anh]]: ''electoral capitulation''), được trình lên cho hoàng đế vừa đắc cứ, văn bảng này có thể hiểu là một hợp đồng giữa các Thân vương trong đế chế với Hoàng đế. Sau khi tuyên thệ tuân thủ theo quy chế của ''Wahlkapitulation'', người được các Tuyển đế hầu bầu chọn sẽ đảm nhận chức vụ [[Vua của người La Mã]]. <ref>Heinhard Steiger: Konkreter Friede und allgemeine Ordnung – Zur rechtlichen Bedeutung der Verträge vom 24.Oktober 1648, in: Heinz Schilling (ed.): 1648. Krieg und Frieden. Text Vol. I, 437–446, 440</ref>
Các Tuyển đế hầu sẽ soạn thảo ra một ''[[Wahlkapitulation]]'' ([[tiếng Anh]]: ''electoral capitulation''), được trình lên cho hoàng đế vừa đắc cử, văn bảng này có thể hiểu là một hợp đồng giữa các Thân vương trong đế chế với Hoàng đế mới. Sau khi tuyên thệ tuân thủ theo quy chế của ''Wahlkapitulation'', người được các Tuyển đế hầu bầu chọn sẽ đảm nhận chức vụ [[Vua của người La Mã]]. <ref>Heinhard Steiger: Konkreter Friede und allgemeine Ordnung – Zur rechtlichen Bedeutung der Verträge vom 24.Oktober 1648, in: Heinz Schilling (ed.): 1648. Krieg und Frieden. Text Vol. I, 437–446, 440</ref>

Vào thế kỷ X và XI, các Thân vương thường chỉ bỏ phiếu để xác nhận quyền kế vị cha truyền con nối thuộc [[Vương triều Otto]] của người Sachsen và [[Vương tộc Salier|Vương triều Salia]] của người Frank. Nhưng với sự hình thành của các Tuyển đế hầu thì các cuộc bầu cử trở nên cởi mở hơn, bắt đầu bằng cuộc bầu chọn của [[Lothair III của Thánh chế La Mã|Hoàng đế Lothair III]] vào năm 1125. Sau khi [[Vương tộc Salier|Vương triều Salia]] bị tuyệt tự dòng nam<ref name=grin>{{cite web |url= https://www.grin.com/document/11046 |title= Die Staufer - Ursprung und Aufstieg eines Herrschergeschlechts |publisher= Grin | author=Thomas Oliver Schindler | access-date= February 29, 2020 }}</ref>, các Tuyển đế hầu bắt đầu bầu ra các vị hoàng đế thuộc vương tộc khác, để đảm bảo rằng ngai vàng không bị thao túng mãi mãi trong một gia tộc.


==Các Tuyển đế hầu==
==Các Tuyển đế hầu==

Phiên bản lúc 22:22, ngày 12 tháng 2 năm 2022

Thứ bậc Hoàng tộc, Quý tộc và Hiệp sĩ
Hoàng đế & Hoàng hậu
Nữ hoàng & Hoàng tế
Thái hoàng thái hậu
Hoàng thái hậu / Thái thượng hoàng hậu
Hoàng thái phi & Thái thượng hoàng

Thái hậu / Thái phi
Vương thái hậu / Vương đại phi
Quốc vương & Vương hậu
Nữ vương & Vương phu
Hoàng tử & Hoàng tử phi
Thái tử & Thái tử phi
Thế tử & Thế tử tần
Công chúa & Phò mã
Đại Thân vương & Đại Vương phi
Đại Công tước & Đại Công tước phu nhân
Thân vương & Vương phi
Phó vương & Phó vương phi
Quận chúa & Quận mã
Huyện chúa & Huyện mã
Công tước & Công tước phu nhân
Hầu tước & Hầu tước phu nhân
Bá tước & Bá tước phu nhân
Tử tước & Tử tước phu nhân
Nam tước & Nam tước phu nhân
Hiệp sĩ & Nữ Tước sĩ

Tuyển đế hầu (tiếng Đức: Kurfürst; tiếng Latinh: Princeps Elector; tiếng Anh: Prince-Elector hay gọi tắt là Elector), còn được gọi tắt là Tuyển hầu, là tước vị dưới thời đại Đế quốc La Mã Thần thánh, dành để gọi những người trong Đại cử tri đoàn của Đế quốc.

Từ thế kỉ 13, các Tuyển đế hầu được quyền bầu cử Vua của người La Mã. Với tước hiệu này, ông vua theo thông lệ là sẽ được đăng quang làm Hoàng đế La Mã Thần thánh, được trao Đế miện trực tiếp bởi các Giáo hoàng. Charles V là vị Hoàng đế La Mã cuối cùng được làm lễ sắc phong (được bầu năm 1519, sắc phong năm 1530), vì từ đây về sau các vị Hoàng đế La Mã đều xuất thân từ nhà Habsburg và được hội đồng Tuyển đế hầu tôn lên ngôi mà không cần qua sự sắc phong của Giáo hoàng.

Phẩm giá và địa vị của các Tuyển hầu khiến họ trở nên rất có thế lực, thường chỉ sau Hoàng đế[1]. Những đặc ân của họ rất riêng biệt cho từng người và họ thường có tính thừa kế tước vị của mình. Người kế vị được gọi là Kurprinz.

Tại Đại hội Đế quốc nhóm họp thường niên ở Regensburg với đầy đủ các nhà cai trị trong đế quốc, Hoàng đế La Mã Thần thánh và các Tuyển đế hầu được xếp ngồi hàng ghế trên cùng, đối diện với 2 nhóm là các Thân vương thế tục và Giám mục vương quyền, ngồi xung quanh là các đại diện của Thành bang tự do...

Lịch sử

Trong Codex Balduineus (khoảng 1340) là hình của hội đồng Tuyển hầu, từ trái qua phải: Tổng giám mục Cologne, Tổng giám mục Mainz, Tổng giám mục Trier, Bá quân xứ Rhein, Công quân xứ Saxony, Hầu quân xứ BrandenburgQuốc vương xứ Bohemia.

Việc bầu cử người đứng đầu là một truyền thống của người German xa xưa, khi họ thường xuyên liên kết các bộ tộc với nhau và bầu chọn người đứng đầu bằng các hình thức khác biệt trong lịch sử. Việc bầu chọn ban đầu chủ trì bởi người Frank, dân tộc có lãnh thổ bao gồm nước Phápnước Đức hiện đại. Sau cùng, nền quân chủ Pháp trở thành nền quân chủ thế tập theo hệ thống cha truyền con nối, còn nền quân chủ Đức vẫn tiếp tục duy trì tính bầu cử này.

Dần dần, quyền bầu cử trong cộng đồng người Đức không phải ai cũng được nữa, mà giới hạn bởi những người đứng đầu có thế lực, và đại diện cho một vùng nào đó trong vương quốc. Hoàn thiện cơ bản là việc quyền bầu cử thu gọn lại trong một hội đồng cụ thể, với những đại diện tăng lữ và quý tộc lớn của các thế lực: người Frank (Công quốc Franconia); người Swabia (Công quốc Swabia); người Saxon (Công quốc Sachsen) và người Bavaria (Công quốc Bavaria).

Quyền và đặc quyền

Các Tuyển đế hầu là những nhà cai trị của reichsstände (Địa vị Hoàng gia - Imperial Estates), có địa vị quan trọng và quyền lực hơn các Thân vương Hoàng gia khác. Cho đến thế kỷ XVIII, các tuyển đế hầu là những nhà cai trị duy nhất trong Đế chế được nhận tước hiệu Durchlaucht (tiếng Anh: Serene Highness). Năm 1742, các tuyển đế hầu được nâng lên tước hiệu Durchlauchtigste (tiếng Anh: Most Serene Highness), trong khi các thân vương khác trong đế chế được nhận tước phong Durchlaucht.

Với tư cách là những nhà cai trị của Địa vị Hoàng gia, các Tuyển đế hầu được hưởng tất cả các đặc quyền của các thân vương trong Đế chế La Mã Thần thánh, bao gồm quyền tham gia vào các liên minh, quyền tự chủ liên quan đến các công việc trên lãnh thổ của mình và được ưu tiên hơn các thần dân khác. Goldene Bulle (Sắc chỉ Vàng) đã cấp cho họ Privilegium de non appellando (Đặc quyền không kháng cáo), đây là thứ đã ngăn cản thần dân của họ nộp đơn kháng cáo lên toà án cấp cao hơn của Hoàng đế La Mã Thần thánh. Tuy đặc quyền này được cấp một cách tự động cho các Tuyển đế hầu, chúng không dành riêng cho các nhà nước khác trong đế quốc, đôi khi chúng cũng được các hoàng đế ban ân dành cho một điền trang nào đó trong đế chế, nhưng đối với các tuyển đế hầu thì nó là đặc quyền được duy trì. [2]

Đại hội Đế chế

Cách sắp xếp chỗ ngồi tại lễ khánh thành Đại hội Đế quốc trong Toà thị chính Regensburg từ bản khắc năm 1675: Hoàng đế La Mã Thần thánh và các Tuyển đế hầu ngồi phía trước; các thân vương thế tục ở bên trái, thân vương giám mục ở phía phải, đại biểu các thành bang tự do của Đế quốc ngồi xung quanh

Các Tuyển đế hầu cũng giống như các Thân vương cai trị trong Đế quốc La Mã Thần thánh, đều là thành viên của Đại hội Đế chế, được chia thành ba nhóm: Hội đồng Tuyển đế hầu, Hội đồng các Thân vương và Hội đồng các Thành bang. Ngoài là thành viên của Hội đồng Tuyển đế hầu, hầu hết các Tuyển đế hầu còn là thành viên của Hội đồng các Thân vương nhờ sở hữu lãnh thổ hoặc giữ chức vụ trong Giáo hội. Đây là 2 nhóm quyền lực nhất trong Đại hội Đế chế, vì cần có sự đồng ý của cả hai cơ quan này thì các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cấu trúc của Đế chế mới được thông qua, chẳng hạn như việc thành lập các Tuyển hầu quốc mới hoặc các nhà nước trong Đế chế.

Một số Tuyển đế hầu cai trị nhiều nhà nước trong Đế chế, hoặc nắm giữ một số chức danh giáo hội, vì thế mà họ có nhiều phiếu biểu quyết trong Hội đồng các Thân vương. Năm 1792, Tuyển hầu quốc Brandenburg có 8 phiếu, Tuyển hầu quốc Bayern có 6 phiếu, Tuyển hầu quốc Hannover có 6 phiếu, Vương quốc Bohemia có 3 phiếu, Tuyển hầu quốc Trier có 3 phiếu, Tuyển hầu quốc Cologne có 2 phiếu, Tuyển đế hầu Mainz có 1 phiếu. Do đó, trong số hàng trăm phiếu biểu quyết của Hội đồng các Thân vương năm 1792, có 29 phiếu thuộc về các Tuyển đế hầu, điều này đã mang lại cho họ nhiều ảnh hưởng trong hội đồng, ngoài ra họ còn sở hữu quyền lực trong nhóm Hội đồng Tuyển đế hầu.

Ngoài việc bỏ phiếu trong các hội đồng, Đại hội Đế chế cũng bỏ phiếu trong các liên minh tôn giáo, điều này được quy định bởi Hòa ước Westphalia. Tổng giám mục của Mainz chủ trì cơ quan Công giáo hay corpus catholicorum, trong khi đó Tuyển đế hầu Sachsen chủ trì cơ quan Tin Lành, hay corpus evangelicorum. Sự phân chia thành các cơ quan tôn giáo là trên cơ sở tôn giáo chính thức của nhà nước, chứ không phải của những người cai trị nó. Vì vậy, mặc dù từ thế kỷ thứ XVIII, các Tuyển đế hầu của Sachsen đã chuyển sang Công giáo, nhưng họ vẫn tiếp tục chủ trì cơ quan Tin Lành.

Các cuộc bầu cử Hoàng đế

Sau khi một Hoàng đế La Mã Thần thánh qua đời, trong vòng 1 tháng, Tổng giám mục của Mainz sẽ triệu tập các Tuyển đế hầu, và họ nhóm họp với nhau trong vòng 3 tháng sau khi được triệu tập. Trong thời gian diễn ra bầu chọn hoàng đế mới (interregnum), quyền lực của Đế chế La Mã Thần thánh được thực thi bởi 2 Đại diện hoàng gia (Imperial vicar)[3] . Theo Golden Bull, mỗi Đại diện hoàng gia là người quản lý của chính đế chế, với quyền lực có thể thông qua các phán quyết, hiệp thông với các lãnh đạo Giáo hội, thu về lợi nhuận từ các thái ấp, tiếp nhận các lời thề trung thành với Đế chế La Mã Thần thánh. Tuyển để hầu Sachsen là một Đại diện hoàng gia, thực hiện quyền lực ở các khu vực theo Luật Sachsen (Công quốc Sachsen, Westphalia, Tuyển hầu quốc Hannover và miền Bắc nước Đức)[3], trong khi Tuyển đế hầu Palatine là đại diện ở phần còn lại của Đế chế (Franconia, Swabia, Rhine và miền Nam nước Đức)[3]. Tuyển đế hầu Bayern thay thế Tuyển đế hầu Palatine trở thành Đại diện hoàng gia từ năm 1623, nhưng từ năm 1648, đã có một cuộc tranh cãi giữa 2 nhà cai trị Palatine và Bayern về việc ai mới là Đại diện hoàng gia. Cuối cùng, Tuyển đế hầu Bayern đã được công nhận. Sau đó, hai Tuyển đế hầu Palatine và Bayern đã ký một thoả thuận để cùng giữ quyền đại diện, nhưng Đại hội Đế chế đã bác bỏ thoả thuận này. Năm 1711, trong khi Tuyển đế hầu Bayern bị Lệnh cấm của hoàng gia[4], Palatine một lần nữa đóng vai trò là đại diện, nhưng sau đó người cai trị xứ Bayern đã được phục chức.

Cuối cùng, vào năm 1745, hai nhà cai trị đồng ý sẽ luân phiên nắm giữ ghế Đại diện hoàng gia, trong đó Bayern sẽ bắt đầu trước. Sự sắp xếp này đã được công nhận bởi Đại hội Đế chế năm 1752. Năm 1777, câu hỏi đã được giải quyết khi Tuyển đế hầu Palatine thừa kế lãnh thổ của Tuyển hầu quốc Bayern.

Frankfurt thường xuyên là địa điểm tổ chức bầu cử, kể từ thế kỷ XV trở đi, nhưng các cuộc bầu cử cũng được tổ chức tại Cologne (1531), Regensburg (1575 và 1636), và Augsburg (1653 và 1690). Một Tuyển đế hầu có thể đích thân xuất hiện để bỏ phiếu hoặc có thể uỷ nhiệm cho một Tuyển đế hầu khác bỏ phiếu thay mình. Thông thường, một đại sứ hoặc đại diện của Tuyển đế hầu sẽ thay mặt; Chứng nhận của những người đại diện như vậy sẽ được thông qua bởi Tổng giám mục Mainz, người chủ trì buổi lễ. Các cuộc thảo luận được tổ chức tại tòa thị chính, nhưng việc bỏ phiếu sẽ diễn ra ở nhà thờ lớn Frankfurt, hay Wahlkapelle, đã được sử dụng cho các cuộc bầu cử. Dưới thời Golden Bull, đa số Tuyển đế hầu đã đủ điều kiện để bầu ra vua và mỗi Tuyển đế hầu chỉ được bỏ một phiếu bầu. Các Tuyển đế hầu được tự do bỏ phiếu cho bất kỳ ai họ muốn (bao gồm cả chính họ).

Các Tuyển đế hầu sẽ soạn thảo ra một Wahlkapitulation (tiếng Anh: electoral capitulation), được trình lên cho hoàng đế vừa đắc cử, văn bảng này có thể hiểu là một hợp đồng giữa các Thân vương trong đế chế với Hoàng đế mới. Sau khi tuyên thệ tuân thủ theo quy chế của Wahlkapitulation, người được các Tuyển đế hầu bầu chọn sẽ đảm nhận chức vụ Vua của người La Mã. [5]

Vào thế kỷ X và XI, các Thân vương thường chỉ bỏ phiếu để xác nhận quyền kế vị cha truyền con nối thuộc Vương triều Otto của người Sachsen và Vương triều Salia của người Frank. Nhưng với sự hình thành của các Tuyển đế hầu thì các cuộc bầu cử trở nên cởi mở hơn, bắt đầu bằng cuộc bầu chọn của Hoàng đế Lothair III vào năm 1125. Sau khi Vương triều Salia bị tuyệt tự dòng nam[6], các Tuyển đế hầu bắt đầu bầu ra các vị hoàng đế thuộc vương tộc khác, để đảm bảo rằng ngai vàng không bị thao túng mãi mãi trong một gia tộc.

Các Tuyển đế hầu

Từ năm 1257 đến chiến tranh 30 năm

Huy hiệu của 7 vị Tuyển đế hầu cùng hình tượng Germania.

Danh sách 7 Tuyển đế hầu vị được đề cập vào năm 1257, bao gồm:

Trong đó, có 3 đại diện thuộc giới tăng lữ, các Tổng giám mục có rất nhiều sự tôn kính và thường là những thế lực chủ chốt trong hội đồng, trong khi 4 vị kia thường đại diện một thế lực có ảnh hưởng trong thời đại.

Bá tước xứ Rhein đã thay thế Công tước xứ Franconia sau khi vị Công tước cuối cùng chết vào năm 1039, Hầu tước xứ Brandenburg đã soán ngôi vị của Công tước xứ Swabia sau khi vị Công tước cuối cùng bị chặt đầu vào năm 1268 và lãnh thổ bị thu hồi. Chỉ có Công quốc Saxony vẫn an toàn giữ vị thế của mình và tồn tại cho đến hơn nhiều thế kỉ về sau.

Đến thời kỳ Napoleon

Sau nhiều biến đổi chính trị, đến thế kỉ 18 thì hội đồng Tuyển đế hầu chia ra cơ bản về phe Công giáo và phe Tin lành, với tổng cộng là 8 Tuyển hầu tước.

Phe Công giáo:

Phe Tin lành:

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Precedence among Nations
  2. ^ Even a small Free Imperial City such as Schwäbisch Gmünd had been granted the Privilegium de non appellando in 1475. Cf. Kaiser Friedrich III.: Privilegium de non appellando für Schwäbisch Gmünd, 1475
  3. ^ a b c “the Holy Roman Empire”. heraldica.org.
  4. ^ Marquardt, Bernd (2015). “Imperial ban”. Encyclopedia of Early Modern History Online (bằng tiếng Anh). doi:10.1163/2352-0272_emho_sim_026352.
  5. ^ Heinhard Steiger: Konkreter Friede und allgemeine Ordnung – Zur rechtlichen Bedeutung der Verträge vom 24.Oktober 1648, in: Heinz Schilling (ed.): 1648. Krieg und Frieden. Text Vol. I, 437–446, 440
  6. ^ Thomas Oliver Schindler. “Die Staufer - Ursprung und Aufstieg eines Herrschergeschlechts”. Grin. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020.

Tham khảo

  • Bryce, J. (1887). The Holy Roman Empire, 8th ed. New York: Macmillan.