Christian Benteke
Benteke thi đấu cho Bỉ năm 2017 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Christian Benteke Liolo[1] | ||
Ngày sinh | 3 tháng 12, 1990 | ||
Nơi sinh | Kinshasa, Zaire[2] | ||
Chiều cao | 1,90 m (6 ft 3 in) | ||
Vị trí | Tiền đạo | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | D.C. United | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1996–2004 | JS Pierreuse | ||
2004–2006 | Standard Liège | ||
2006–2007 | Genk | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2007–2009 | Genk | 10 | (1) |
2009–2011 | Standard Liège | 18 | (3) |
2009–2010 | → Kortrijk (cho mượn) | 34 | (14) |
2010–2011 | → Mechelen (cho mượn) | 18 | (6) |
2011–2012 | Genk | 37 | (19) |
2012–2015 | Aston Villa | 89 | (42) |
2015–2016 | Liverpool | 29 | (9) |
2016–2022 | Crystal Palace | 162 | (35) |
2022– | D.C. United | 0 | (0) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2007 | U-17 Bỉ | 11 | (6) |
2007–2008 | U-18 Bỉ | 7 | (4) |
2008–2009 | U-19 Bỉ | 10 | (10) |
2009–2012 | U-21 Bỉ | 9 | (4) |
2010– | Bỉ | 45 | (18) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 3 tháng 10 năm 2021 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 29 tháng 3 năm 2022 |
Christian Benteke Liolo (sinh ngày 3 tháng 12 năm 1990) là cầu thủ bóng đá người Bỉ thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ D.C. United tại Major League Soccer và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ.
Benteke bắt đầu sự nghiệp tại Standard Liège rồi chuyển đến Genk trong mùa giải 2011-12. Trong kỳ chuyển nhượng mùa hè năm 2012, anh trở thành cầu thủ của Aston Villa. Anh thi đấu cho Villa trong ba mùa giải, ghi 42 bàn sau 89 trận tại Premier League[3] và chuyển đến Liverpool với phí chuyển nhượng 32,5 triệu £, tân binh đắt giá thứ hai trong lịch sử Liverpool vào thời điểm đó. Tuy nhiên với chỉ 10 bàn thắng trong mùa giải đầu tiên tại Liverpool, anh đã rời câu lạc bộ này để đến Crystal Palace từ đầu mùa giải 2016–17.
Benteke thi đấu trận đầu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ vào tháng 5 năm 2010 và là thành viên đội tuyển Bỉ tham dự Euro 2016 và Euro 2020. Anh hiện đang giữ kỷ lục là cầu thủ ghi bàn nhanh nhất lịch sử vòng loại World Cup với bàn thắng ở giây 8,1 trong trận đấu với Gibraltar tại vòng loại World Cup 2018.[4]
Tuổi thơ
[sửa | sửa mã nguồn]Benteke sinh ra tại Kinshasa ngày 3 tháng 12 năm 1990. Anh và gia đình đã rời khỏi đất nước trong thời kì chế độ độc tài Mobutu và đến tị nạn tại Liège, Bỉ.[5]
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Standard Liège and Genk
[sửa | sửa mã nguồn]Benteke thi đấu tại đội trẻ JS Pierreuse và sau đó là Standard Liège trước khi gia nhập Genk. Anh trở về Standard vào tháng 1 năm 2009.[6] Ngày 7 tháng 8 năn 2009, anh đến KV Kortrijk theo bản hợp đồng cho mượn một năm.[7] Mùa giải tiếp theo, anh được cho mượn tại KV Mechelen như một phần trong vụ chuyển nhượng tiền đạo Aloys Nong, người chuyển đến Standard Liège theo chiều ngược lại. Anh trở về thi đấu cho Genk năm 2011, ghi được 19 bàn sau 37 trận đấu chỉ trong một mùa giải.[8]
Aston Villa
[sửa | sửa mã nguồn]Mùa giải 2012–13
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 31 tháng 8 năm 2012, Benteke gia nhập đội bóng tại Premier League là Aston Villa với phí chuyển nhượng khoảng 7 triệu £ cùng bản hợp đồng có thời hạn bốn năm.[9] Ngày 15 tháng 9 năm 2012, Benteke ghi bàn thắng đầu tiên cho Aston Villa ngay trong trận ra mắt trong chiến thắng 2-0 trước Swansea City khi vào sân thay cho tiền đạo người Áo Andreas Weimann.[10] Sau đó anh ghi bàn thắng duy nhất cho Villa trong trận hòa 1-1 với Norwich City.[11] Benteke tiếp tục có màn ra mắt thành công tại League Cup với cú đúp trong chiến thắng 3-2 trước Swindon Town.[12] Chuỗi trận ra mắt ấn tượng của anh tại môi trường bóng đá Anh được kéo dài bằng bàn thắng đem về chiến thắng 1-0 trước Reading tại sân nhà Villa Park ngày 27 tháng 11.[13]
Ngày 15 tháng 12, Benteke lập cú đúp và còn có một pha kiến tạo trong chiến thắng bất ngờ 3-1 trước Liverpool ngay tại Anfield. Huấn luyện viên Aston Villa Paul Lambert khen tặng Benteke "bạn không biết phải nói gì nữa về chàng trai ấy, ngoài chuyện cậu ấy trẻ và tài năng như thế nào".[14]
Sau khi không ghi bàn trong ba trận, Benteke ghi bàn trở lại ngay trong trận đấu đầu tiên của Villa năm 2013 với Swansea City.[15] Bàn thắng thứ 10 của anh trong mùa giải là một cú sút xa đẹp mắt trong trận hòa 2-2 với West Bromwich Albion. Bàn thắng này của anh sau đó đã được bình chọn là bàn thắng đẹp nhất tháng 1.[16] Tại League Cup, bàn thắng của anh trong trận đấu với Bradford City không đủ để đưa Villa vào chung kết do để thua chung cuộc 3-4.[17] Anh có bàn thắng thứ 15 trên mọi giải đấu với quả phạt đền thành công trong chiến thắng 2-1 trước West Ham United ngày 10 tháng 2 năm 2013. Đây cũng là chiến thắng đầu tiên tại Premier League của Villa sau chuỗi 8 trận đấu chỉ toàn hòa và thua.[18]
Benteke ghi bàn thứ 100 của Aston Villa tại Premier League đem về chiến thắng quan trọng 2–1 trước Reading. Một tuần sau đó, anh tiếp tục ghi bàn thắng ấn định chiến thắng 3–2 trước Queens Park Rangers.[19][20] Benteke được đề cử danh hiệu PFA Young Player of the Year và sau cùng đã về vị trí thứ hai sau Gareth Bale.[21] Ngày 29 tháng 4, Benteke lập được một hat-trick cho Villa trong chiến thắng 6-1 trước Sunderland, giúp anh phá vỡ kỷ lục ghi bàn của Dwight Yorke tại Premier League (18) và có hơn 20 bàn thắng trên mọi mặt trận, trở thành cầu thủ Villa đầu tiên làm được điều này sau Juan Pablo Ángel ở mùa giải 2003-04.[22]
Ngày 11 tháng 5, Benteke ghi bàn thắng cuối cùng của mùa giải trong trận thua 1-2 trước Chelsea và sau đó bị truất quyền thi đấu.[23] Benteke kết thúc mùa giải với tổng cộng 19 bàn tại Premier League và 23 bàn thắng trên tất cả các mặt trận.
Mùa giải 2013–14
[sửa | sửa mã nguồn]Trước mùa giải 2013-14 đã có nhiều nguồn tin Benteke sẽ chuyển đến một câu lạc bộ khác nhưng vào ngày 19 tháng 7 năm 2013, Benteke đã rút lại yêu cầu xin được chuyển nhượng sau khi nói chuyện với huấn luyện viên Paul Lambert và đồng ý ký tiếp hợp đồng bốn năm với Villa.[24]
Ngày 17 tháng 8 năm 2013, Benteke lập được cú đúp ngay trong trận đấu mở màn Premier League 2013-14, giúp Villa giành chiến thắng 3-1 đầy bất ngờ trước Arsenal.[25] Bốn ngày sau, anh lại ghi bàn vào lưới một đội bóng lớn khác là Chelsea nhưng Villa để thua chung cuộc 2-1.[26] Tại vòng 2 League Cup, anh ghi bàn giúp Villa đánh bại Rotherham United 3–0.[27] Phong độ cao của Benteke đầu mùa giải được tiếp nối bằng bàn thắng trong trận thua Newcastle United, bàn thắng thứ 5 sau 4 trận đầu mùa của anh.[28] Tuy nhiên, chấn thương gặp phải trong trận đấu với Norwich City sau đó đã khiến anh theo dự tính phải nghỉ thi đấu trong sáu tuần.[29] Anh chính thức trở lại từ ngày 20 tháng 10 trong trận thua 2-0 trước Totteham Hotspur.[30]
Phong độ sa sút do chấn thương khiến cho Benteke không thể ghi bàn trong 12 trận cho đến tận ngày 13 tháng 1 năm 2014 với bàn thắng trong trận thua Arsenal 1–2.[31][32] Một tuần sau, anh ghi bàn trong trận hòa 2-2 với Liverpool và sau đó là chiến thắng 4-3 trước West Bromwich Albion.[33][34] Trong suốt tháng 2, Benteke không ghi được bàn nào nhưng vào ngày 1 tháng 3, anh có cú đúp vào lưới Norwich City chỉ trong vòng ba phút, để chung cuộc Villa thắng 4-1.[35]
Ngày 3 tháng 4 năm 2014, Benteke bị đứt gân gót Achilles trong khi tập luyện khiến anh phải nghỉ thi đấu hết phần còn lại của mùa giải và mất luôn cơ hội tham dự World Cup 2014.[36]
Mùa giải 2014-15
[sửa | sửa mã nguồn]Sau sáu tháng chấn thương, Benteke chính thức trở lại vào ngày 4 tháng 10 năm 2014 trong trận thua Manchester City 2-0.[37] Một tháng sau đó, anh đã bị trọng tài Neil Swarbrick rút thẻ đỏ trực tiếp do có hành vi đánh vào mặt cầu thủ Tottenham Hotspur Ryan Mason khiến Villa thua ngược 2–1 sau đó.[38] Đầu tháng 12 năm 2014, anh mới có bàn thắng đầu tiên kể từ khi trở lại sau chấn thương, đem về chiến thắng 1-0 cho Villa trước Crystal Palace.[39]
Anh có bàn thắng thứ hai trong mùa giải với bàn mở tỉ số trong trận hòa 1-1 với Manchester United tại Villa Park.[40] Phải đến tháng 3 năm 2015, anh mới có bàn thắng kế tiếp, bàn thắng từ chấm phạt đền ở phút 94 mang về 3 điểm quý giá cho Villa trong trận derby miền Trung nước Anh với West Bromwich Albion.[41] Ngày 7 tháng 4, anh lập hat-trick trong trận hòa 3-3 với Queens Park Rangers, để có được phong độ ấn tượng 7 bàn sau 5 trận đấu kể từ khi huấn luyện viên Tim Sherwood lên nắm quyền.[42] Bốn ngày sau đó, Benteke ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Tottenham, giúp Villa leo lên vị trí 15 trên bảng xếp hạng với 32 điểm, nới rộng khoảng cách với nhóm phải xuống hạng lên 6 điểm.[43]
Ngày 19 tháng 4, anh ghi bàn thắng gỡ hòa cho Villa để sau đó đội bóng của anh lội ngược dòng đánh bại Liverpool 2-1 để lần đầu tiên sau 15 năm có mặt tại trận chung kết cúp FA (nhưng sau đó để thua Arsenal 4-0).[44] Ngày 2 tháng 5, anh lập cú đúp đem về chiến thắng 3-2 trước Everton, bàn thắng thứ 11 trong 9 trận kể từ khi Tim Sherwood trở thành tân huấn luyện viên của Villa.[45] Thành tích ghi bàn ấn tượng giúp anh trở thành cầu thủ xuất sắc nhất trong tháng của Giải bóng đá ngoại hạng Anh trong tháng 4 năm 2015.[46]
Benteke thi đấu trọn vẹn 90 phút trận Chung kết Cúp FA 2015, nơi Villa đã bị Arsenal đánh bại với tỉ số 4-0.[47] Đây cũng là trận đấu thứ 101, trận đấu cuối cùng của anh cho Aston Villa sau ba mùa giải với thành tích 49 bàn thắng, trong đó có 42 bàn tại Premier League.[3][48]
Liverpool
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 22 tháng 7 năm 2015, Benteke chính thức trở thành tân binh của Liverpool với phí chuyển nhượng 32,5 triệu £, giúp anh trở thành cầu thủ có giá trị chuyển nhượng cao thứ hai trong lịch sử câu lạc bộ.[49] Ngày 2 tháng 8, anh có trận ra mắt cho Liverpool trong trận giao hữu với Swindon Town và đã ghi bàn trong chiến thắng 2-1.[48]
Mùa giải 2015–16
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 9 tháng 8, anh có trận đấu chính thức đầu tiên cho Liverpool trong chiến thắng 1-0 trước Stoke City tại vòng 1 Premier League 2015-16.[50] Một tuần sau đó, anh có bàn thắng đầu tiên tại Premier League trong màu áo mới, bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Bournemouth.[51] Ngày 12 tháng 9, trong trận thua 1-3 của Liverpool trước Manchester United, Benteke ghi được một bàn thắng tuyệt đẹp bằng một pha dứt điểm theo kiểu xe đạp chổng ngược.[52]
Sau một vài trận phải nghi đấu vì chấn thương, anh đã lập công trong hai trận liên tiếp sau khi vào sân từ băng ghế dự bị vào ngày 25 và 31 tháng 10: trận hòa 1–1 với Southampton[53] và chiến thắng 3-1 trước Chelsea.[54] Ngày 26 tháng 12, anh vào sân thay cho người đồng hương Divock Origi đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với đội đầu bảng Leicester City, chấm dứt chuỗi 9 trận bất bại của đội bóng này.[55]
Ngày 8 tháng 1 năm 2016, Benteke được chọn làm đội trưởng của Liverpool trong trận đấu vòng ba cúp FA với Exeter City.[56] Ngày 11 tháng 5 năm 2016, Benteke có bàn thắng thứ 10 trong mùa giải với pha ghi bàn gỡ hòa 1-1 ở phút 92 trận đấu với Chelsea.[57] Kết thúc mùa giải 2015-16, Benteke có được 10 bàn thắng sau 42 trận cho Liverpool.[58]
Crystal Palace
[sửa | sửa mã nguồn]Mùa giải 2016–17
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 20 tháng 8 năm 2016, Benteke chuyển đến Crystal Palace theo bản hợp đồng bốn năm với phí chuyển nhượng 27 triệu £ cộng thêm với 5 triệu £ tùy vào thành tích của Benteke.[59] Ba ngày sau đó, anh có trận đấu đầu tiên cho Palace trong chiến thắng 2-0 trước Blackpool tại Cúp Liên đoàn Anh.[60]
Ngày 10 tháng 9 năm 2016, Benteke ghi bàn thắng đầu tiên trong màu áo Palace, đem về chiến thắng 2-1 trước Middlesbrough.[61] Hai tuần sau đó, pha đánh đầu ghi bàn ở phút thứ 94 của anh đã giúp Palace lội ngược dòng thành công 3-2 trước Sunderland sau khi đã bị dẫn trước 2-0.[62] Ngày 3 tháng 12 (sinh nhật của Benteke), anh lập cú đúp trong chiến thắng 3-0 trước Southampton, chấm dứt chuỗi 6 trận thua liên tiếp của Palace.[63] Một tuần sau, anh ghi bàn gỡ hòa 1-1 cho Palace trong trận cầu 6 bàn thắng chia đều giữa Palace và Hull City.[64]
Ngày 17 tháng 1 năm 2017, Benteke có cú đúp trong trận đá lại vòng 3 Cúp FA 2016-17 thắng Bolton 2-1.[65] Ngày 31 tháng 1, bàn ấn định tỷ số 2-0 của anh trước AFC Bournemouth giúp tân huấn luyện viên của Palace là Sam Allardyce có chiến thắng đầu tiên với đội bóng này tại Ngoại hạng Anh.[66] Ngày 1 tháng 4, Palace đánh bại đội đầu bảng Chelsea 2-1 với pha lập công ấn định tỷ số thuộc về Benteke.[67] Ngày 23 tháng 4, anh trở lại Anfield tiếp đón đội bóng cũ Liverpool và có hai bàn thắng giúp Palace có chiến thắng 2–1.[68] Anh ghi được 15 bàn thắng tại Premier League 2016-17 và 17 bàn thắng trên mọi đấu trường.
Mùa giải 2020-21
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 6 tháng 12 năm 2020, Benteke lập cú đúp trong chiến thắng 5-1 trước West Bromwich Albion trên sân khách.[69] Mười ngày sau đó, anh lập công gỡ hòa 1-1 ở phút thứ 34 trận đấu với West Ham United trước khi bị truất quyền thi đấu vì thẻ vàng thứ hai ở phút 70.[70] Ngày 22 tháng 2 năm 2021, anh có cú vô-lê đem về chiến thắng 2-1 cho Palace ở phút 90+5 trận đấu với đối thủ cạnh tranh suất chống xuống hạng là Brighton & Hove Albion.[71]
Ngày 8 tháng 5, Palace chính thức trụ hạng Premier League với chiến thắng 2-0 trước Sheffield United và Benteke là người mở tỉ số ngay phút thứ 2.[72] Sau một mùa giải thành công với 10 bàn thắng tại Premier League 2020-21 cho Palace, Benteke được đội bóng này gia hạn hợp đồng thêm hai năm đến hết mùa giải 2022-23.[73]
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Benteke là thành viên đội tuyển bóng đá U-17 Bỉ tham dự Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2007 tại Hàn Quốc. Giải đấu này anh thi đấu ba trận và ghi được một bàn thắng.[74]
Ngày 19 tháng 5 năm 2010, anh có trận đấu đầu tiên cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ trong trận giao hữu với Bulgaria tại Brussels sau khi huấn luyện viên cũ của anh tại Kortrijk là Georges Leekens trở thành huấn luyện viên trưởng đội tuyển nước này. Ngày 15 tháng 8 năm 2012, anh ghi được bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Bỉ trong chiến thắng 4-2 trước Hà Lan ở lần thứ năm khoác áo đội tuyển.[75]
Tại Vòng loại World Cup 2014, anh ghi hai bàn trong bảy trận đấu cho đội tuyển Bỉ nhưng bỏ lỡ cơ hội tham dự World Cup 2014 do đứt gân gót Achilles.[76] Anh trở lại đội hình đội tuyển Bỉ sau chấn thương tại vòng loại Euro 2016 và ghi được bàn thắng quốc tế đầu tiên sau gần hai năm trong trận thắng 5–0 trước Síp ngày 28 tháng 3 năm 2015.[77]
Benteke sau đó có tên trong đội hình đội tuyển Bỉ tham dự Euro 2016 tại Pháp. Tại giải đấu này, anh được vào sân trong hai trận vòng bảng với Cộng hòa Ireland và Thụy Điển (đều thay cho Romelu Lukaku ở những phút cuối trận đấu).[78][79] Bỉ bị loại ở tứ kết sau trận thua trước Wales.
Ngày 10 tháng 10 năm 2016, Benteke trở thành cầu thủ ghi bàn nhanh nhất lịch sử vòng loại World Cup với bàn thắng ở giây 8,1 trong chiến thắng 6-0 trước Gibraltar tại vòng loại World Cup 2018. Trong trận này, anh cũng lập được hat-trick đầu tiên trong màu áo đội tuyển quốc gia.[80]
Ngày 17 tháng 5 năm 2021, Benteke có tên trong đội hình 26 tuyển thủ Bỉ tham dự Euro 2020.[81] Anh chỉ có một lần xuất hiện tại giải đấu này trong trận đấu cuối cùng vòng bảng với Phần Lan.
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 13 tháng 3 năm 2021[82]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải quốc nội | Cup | League Cup | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Genk | 2007–08 | Giải vô địch bóng đá Bỉ | 7 | 1 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 7 | 1 | |
2008–09 | 3 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 3 | 0 | |||
Tổng cộng | 10 | 1 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 10 | 1 | |||
Standard Liège | 2008–09 | Giải vô địch bóng đá Bỉ | 9 | 3 | 0 | 0 | — | 2 | 0 | 11 | 3 | |
2009–10 | 5 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 5 | 0 | |||
2010–11 | 4 | 1 | 0 | 0 | — | 5 | 0 | 9 | 1 | |||
Tổng cộng | 18 | 4 | 0 | 0 | — | 7 | 0 | 25 | 4 | |||
Kortrijk (mượn) | 2009–10 | Giải vô địch bóng đá Bỉ | 34 | 14 | 4 | 2 | — | 0 | 0 | 38 | 16 | |
Mechelen (mượn) | 2010–11 | 18 | 6 | 2 | 1 | — | 0 | 0 | 20 | 7 | ||
Genk | 2011–12 | 32 | 16 | 1 | 0 | — | 0 | 0 | 33 | 16 | ||
2012–13 | 5 | 3 | 0 | 0 | — | 3 | 1 | 8 | 4 | |||
Tổng cộng | 37 | 19 | 1 | 0 | — | 3 | 1 | 41 | 20 | |||
Aston Villa | 2012–13 | Premier League | 34 | 19 | 0 | 0 | 5 | 4 | 0 | 0 | 39 | 23 |
2013–14 | 26 | 10 | 1 | 0 | 1 | 1 | 0 | 0 | 28 | 11 | ||
2014–15 | 28 | 13 | 5 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 33 | 15 | ||
Tổng cộng | 88 | 42 | 6 | 2 | 6 | 5 | 0 | 0 | 100 | 49 | ||
Liverpool | 2015–16 | Premier League | 29 | 9 | 4 | 0 | 2 | 0 | 7 | 1 | 42 | 10 |
Crystal Palace | 2016–17 | Premier League | 36 | 15 | 2 | 2 | 2 | 0 | 0 | 0 | 40 | 17 |
2017–18 | 30 | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 30 | 3 | ||
2018–19 | 16 | 1 | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 19 | 1 | ||
2019–20 | 24 | 2 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 25 | 2 | ||
2020–21 | 22 | 5 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 23 | 5 | |||
Tổng cộng | 129 | 26 | 6 | 2 | 3 | 0 | — | 138 | 28 | |||
Tổng cộng sự nghiệp | 364 | 120 | 23 | 7 | 11 | 5 | 17 | 2 | 414 | 134 |
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến 29 tháng 3 năm 2022.[83]
Đội tuyển quốc gia | Năm | Số lần ra sân | Số bàn thắng |
---|---|---|---|
Bỉ | 2010 | 3 | 0 |
2012 | 5 | 4 | |
2013 | 8 | 2 | |
2014 | 3 | 0 | |
2015 | 5 | 1 | |
2016 | 6 | 3 | |
2017 | 1 | 2 | |
2019 | 6 | 3 | |
2020 | 1 | 0 | |
2021 | 5 | 2 | |
2022 | 2 | 1 | |
Tổng cộng | 45 | 18 |
Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 15 tháng 8 năm 2012 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Hà Lan | 1–0 | 4–2 | Giao hữu |
2. | 12 tháng 10 năm 2012 | Sân vận động Crvena Zvezda, Belgrade, Serbia | Serbia | 1–0 | 3–0 | Vòng loại World Cup 2014 |
3. | 16 tháng 10 năm 2012 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels. Bỉ | Scotland | 1–0 | 2–0 | |
4. | 14 tháng 11 năm 2012 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels. Bỉ | România | 1–0 | 1–2 | Giao hữu |
5. | 29 tháng 5 năm 2013 | Sân vận động FirstEnergy, Cleveland, Hoa Kỳ | Hoa Kỳ | 2–1 | 4–2 | |
6. | 4–1 | |||||
7. | 28 tháng 3 năm 2015 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels. Bỉ | Síp | 2–0 | 5–0 | Vòng loại Euro 2016 |
8. | 10 tháng 10 năm 2016 | Sân vận động Algarve, Faro/Loulé, Bồ Đào Nha | Gibraltar | 1–0 | 6–0 | Vòng loại World Cup 2018 |
9. | 3–0 | |||||
10. | 5–0 | |||||
11. | 28 tháng 3 năm 2017 | Sân vận động Olympic Fisht, Sochi, Nga | Nga | 2–1 | 3–3 | Giao hữu |
12. | 3–1 | |||||
13. | 10 tháng 10 năm 2019 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | San Marino | 7–0 | 9–0 | Vòng loại Euro 2020 |
14. | 19 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Síp | 1–1 | 6–1 | |
15. | 6–1 | |||||
16. | 30 tháng 3 năm 2021 | Den Dreef, Leuven, Bỉ | Belarus | 8–0 | 8–0 | Vòng loại World Cup 2022 |
17. | 13 tháng 11 năm 2021 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Estonia | 1–0 | 3–1 | |
18. | 29 tháng 3 năm 2022 | Lotto Park, Anderlecht, Bỉ | Burkina Faso | 3–0 | 3–0 | Giao hữu |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ (1): 2008–09
Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]- Cầu thủ xuất sắc nhất trong tháng của Giải bóng đá ngoại hạng Anh: Tháng 4 năm 2015
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “List of Players under Written Contract Registered Between 01/09/2012 and 30/09/2012” (PDF). The Football Association. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Christian Benteke: Street football took brilliant Belgians to top - News & Comment - Football - The Independent”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
- ^ a b “Liverpool chiêu mộ Benteke: Vụ đầu tư hợp lý của Rodgers”. Bóng Đá +. ngày 23 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021}. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|access-date=
(trợ giúp) - ^ “Belgium's Christian Benteke scored the fastest ever World Cup qualifying goal after 8.1 seconds against Gibraltar”. BBC Sports. ngày 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
- ^ Sam Wallace (ngày 9 tháng 11 năm 2012). “Christian Benteke: Street football took brilliant Belgians to top”. Luân Đôn: The Independent. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Christian Benteke volgt Bolat”. Article.wn.com.
- ^ Footgoal.Net. “Officiel: Benteke à Courtrai, Van Hout au Standard”. Footgoal.net. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Christian Benteke | Age 21”. WhoScored.com.
- ^ Stuart James (ngày 1 tháng 9 năm 2012). “Aston Villa sign £7m Christian Benteke but are forced to defend transfers”. The Guardian.
- ^ “Aston Villa 2–0 Swansea”. BBC Sport. ngày 15 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Aston Villa 1–1 Norwich”. BBC Sport. ngày 27 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Swindon 2–3 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 30 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Aston Villa 1–0 Reading”. BBC Sport. ngày 27 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Liverpool 1–3 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 15 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Swansea 2–2 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 1 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2013.
- ^ “West Brom 2–2 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 19 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Aston Villa 2–1 Bradford (3–4)”. BBC Sport. ngày 22 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Aston Villa 2–1 West Ham”. BBC Sport. ngày 10 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Reading 1–2 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 9 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
- ^ “Aston Villa 3–2 QPR”. BBC Sport. ngày 16 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
- ^ “Carrick, Bale, Suarez, Van Persie, Hazard & Mata on PFA shortlist”. BBC Sport. ngày 19 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Aston Villa 6–1 Sunderland”. ngày 29 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Aston Villa 1–2 Chelsea”. ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Christian Benteke: Aston Villa striker signs new deal”. BBC Sport. ngày 19 tháng 7 năm 2013.
- ^ “Arsenal 1–3 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 21 tháng 8 năm 2013.
- ^ “Chelsea 2–1 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 21 tháng 8 năm 2013.[liên kết hỏng]
- ^ “Aston Villa 3–0 Rotherham”. BBC Sport. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
- ^ “Aston Villa 1–2 Newcastle”. BBC Sport. ngày 14 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
- ^ “Premier League: Aston Villa striker Christian Benteke faces six weeks out with hip injury”. Sky Sports. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
- ^ “Aston Villa 0–2 Tottenham”. BBC Sport. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Premier League: Aston Villa's Christian Benteke backed to rediscover top form”. Sky Sports. ngày 1 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2014.
- ^ “Aston Villa 1–2 Arsenal”. BBC Sport. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2014.
- ^ “Liverpool 2–2 Aston Villa”. BBC Sport. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2014.
- ^ “Aston Villa 4–3 West Bromwich Albion”. BBC Sport. ngày 29 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Aston Villa 4–1 Norwich City”. BBC Sport. ngày 2 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2014.
- ^ “Christian Benteke ruled out of World Cup after rupturing achilles”. ESPN Soccernet. ngày 3 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
- ^ “Aston Villa 0–2 Manchester City”. BBC Sport. ngày 4 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
- ^ Whalley, Mike (ngày 2 tháng 11 năm 2014). “Aston Villa 1–2 Tottenham”. BBC Sport. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Crystal Palace 0-1 Aston Villa: Benteke makes the difference”. Goal.com. ngày 2 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015. Chú thích có tham số trống không rõ:
|1=
(trợ giúp) - ^ “Aston Villa 1–1 Manchester United”. BBC Sport. ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Aston Villa 2–1 West Bromwich Albion”. BBC Sport. ngày 3 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Aston Villa 3–3 QPR”. BBC Sport. ngày 7 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Tottenham 0-1 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 11 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Aston Villa 2-1 Liverpool”. BBC Sport. ngày 19 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Aston Villa 3-2 Everton”. BBC. ngày 2 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Benteke and Pearson win Barclays monthly awards”. Premier League. ngày 8 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
- ^ McNulty, Phil (ngày 30 tháng 5 năm 2015). “Arsenal 4–0 Aston Villa”. BBC Sport. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ a b “Christian Benteke: Liverpool striker scores in Swindon friendly”. BBC Sports. ngày 2 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Christian Benteke: Liverpool sign £32.5m Aston Villa striker”. BBC Sport. ngày 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2015.
- ^ “Stoke 0-1 Liverpool”. BBC Sport. ngày 9 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2015.
- ^ “Liverpool 1-0 Bournemouth”. BBC Sport. ngày 17 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2015.
- ^ “Anthony Martial: Louis van Gaal praises Man Utd teenager's impact”. BBC Sport. ngày 12 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ “Match Report”. BBC Sport. ngày 25 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ McNulty, Phil (ngày 31 tháng 10 năm 2015). “Chelsea 1–3 Liverpool”. BBC Sport. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ Jurejko, Jonathan (ngày 26 tháng 12 năm 2015). “Liverpool 1-0 Leicester”. BBC Sport. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
- ^ “Exeter vs Liverpool team news: Christian Benteke the captain as Jurgen Klopp makes 11 changes”. The Independent. ngày 9 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
- ^ “Liverpool v Chelsea: Christian Benteke cancels out Eden Hazard goal at Anfield in Premier League”. Fox Sports. ngày 12 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
- ^ “Crystal Palace to raise bid for Christian Benteke to £31.5m with Liverpool striker willing to make Selhurst Park switch”. Daily Mail Online. ngày 4 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2016.
- ^ “Christian Benteke: Crystal Palace sign striker from Liverpool for £27m”. BBC Sport. ngày 20 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
- ^ “Crystal Palace 2-0 Blackpool”. BBC Sport. ngày 23 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
- ^ “Middlesbrough 1 Crystal Palace 2: Christian Benteke and Wilfried Zaha net to end Boro's unbeaten run”. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2016.
- ^ “Sunderland 2-3 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 24 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
- ^ “Palace 3 Southampton 0: Birthday boy Benteke eases pressure on Pardew”. ngày 3 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Hull City 3-3 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 10 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Crystal Palace 2-1 Bolton Wanderers”. BBC Sport. ngày 10 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “AFC Bournemouth 0-2 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 31 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Chelsea 1-2 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 1 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Liverpool 1-2 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 23 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “West Bromwich Albion 1-5 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 6 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “West Ham United 1-1 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 16 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Brighton & Hove Albion 1-2 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Sheffield United 0-2 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 8 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Christian Benteke: Crystal Palace striker signs two-year contract extension”. Sky Sports. ngày 3 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ Christian Benteke – Thành tích thi đấu FIFA
- ^ “Villa finally get their man as £7m striker Benteke pens four-year deal”. Mail Online. ngày 31 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2013.
- ^ “Belgium's Benteke ruled out of World Cup”. UEFA. ngày 3 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2014.
- ^ “Belgium 5-0 Cyprus”. UEFA. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
- ^ Saffer, Paul (ngày 18 tháng 6 năm 2016). “Belgium find best form to beat Ireland”. UEFA. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2016.
- ^ Ladyman, Ian (ngày 22 tháng 6 năm 2016). “Sweden 0-1 Belgium: Zlatan Ibrahimovic and Co bow out of Euro 2016 as Radja Nainggolan scores screamer in Nice”. Daily Mail. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2016.
- ^ “Belgium's Benteke scores fastest goal in competitive internationals”. The Guardiant. ngày 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
- ^ “Belgium name Hazard, De Bruyne and Lukaku in 26-man Euro 2020 squad”. The Athletic. ngày 17 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ “C. BENTEKE”. Soccerway. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2015.
- ^ Christian Benteke tại National-Football-Teams.com
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- WhoScored-Stats
- Christian Benteke tại Soccerbase
- Worldsoccerstats Lưu trữ 2013-12-12 tại Wayback Machine
- Stats Lưu trữ 2010-03-17 tại Wayback Machine
- Footgoal Profile Lưu trữ 2012-10-03 tại Wayback Machine
- Christian Benteke – Thành tích thi đấu FIFA
- Christian Benteke – Thành tích thi đấu tại UEFA
- Belgium Stats Thông tin trên trang web Liên Đoàn Bóng Đá Bỉ.
- Sinh năm 1990
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ bóng đá nam Bỉ
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ
- Cầu thủ bóng đá K.R.C. Genk
- Cầu thủ bóng đá Standard Liège
- Cầu thủ bóng đá KV Mechelen
- Cầu thủ bóng đá K.V. Kortrijk
- Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
- Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C.
- Cầu thủ bóng đá Crystal Palace F.C.
- Người Bỉ gốc Congo
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Tiền đạo bóng đá nam
- Nhân vật thể thao từ Kinshasa
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
- Cầu thủ bóng đá nam Bỉ ở nước ngoài
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bỉ
- Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ
- Cầu thủ bóng đá nam Cộng hòa Dân chủ Congo
- Cầu thủ bóng đá Major League Soccer
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020