Cool Japan
Cool Japan (Nhật: クールジャパン (Nhật Bản thú vị) Hepburn: Kūru Japan) cùng với "Gross National Cool" (tổng thú vị quốc gia, hình thức chơi chữ của tổng sản lượng quốc gia) là một khái niệm như một biểu hiện cho sự trỗi dậy của Nhật Bản với vị thế một siêu cường quốc văn hoá. Được mở rộng trên các phương tiện truyền thông và giới học thuật, thương hiệu "Cool Japan" được chính phủ Nhật Bản thông qua cũng như các tổ chức thương mại tìm cách khai thác vốn thương nghiệp của công nghiệp văn hoá Nhật Bản. Nó được miêu tả như một hình thức của quyền lực mềm, "có khả năng gián tiếp ảnh hưởng đến hành vi và sở thích thông qua các phương tiện văn hoá hoặc ý thức hệ".[1][2]
Bối cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Sau sự tàn phá của chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản hy vọng có thể cải thiện kinh tế và hình ảnh quốc gia bằng cách phân phối văn hóa đại chúng Nhật Bản trên khắp thế giới, đặc biệt qua Đông Á nhằm gia tăng danh tiếng và liên minh với các quốc gia láng giềng. Trái ngược với lịch sử hình thành một sức mạnh quân sự mạnh mẽ, Nhật Bản đi theo con đường tự thiết lập thành một sức mạnh quyền lực mềm, điều mà Nhật Bản tin rằng sẽ thay đổi nhận thức về hình ảnh quốc gia. Bắt đầu trong năm 1980 sau khi Bộ Ngoại giao (MOFA) thành lập, Nhật Bản bắt đầu tăng cường nỗ lực xây dựng thương hiệu quốc gia thông qua phát hành một tựa phim truyền hình dạng opera xà phòng là Oshin. Bộ phim được đón nhận tốt và điều này đem đến một sự thúc đẩy tức thì hình ảnh mà Nhật Bản đang cố gắng cải thiện. Thông qua sự thành công của Oshin và rất nhiều chương trình truyền hình khác, Nhật Bản đã giới thiệu ý tưởng "Cool Japan" nhằm khai thác thành công văn hóa đại chúng Nhật Bản và phân phối điều thú vị đó theo hướng nhận thức văn hóa quốc gia.[3]
Matsui Takeshi tại đại học Hitotsubashi chỉ ra thập niên mất mát 'đã đè bẹp sự tự hào của người Nhật' sau phép màu kinh tế thập niên 1980, Nhật Bản đối mặt sự cạnh tranh gay gắt của Hoa Kỳ và một số nền kinh tế mới nổi như Hàn Quốc, Trung Quốc đầu thế kỷ 21 sau 'thất bại cay đắng' trong chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ; các sản phẩm văn hóa Nhật Bản phổ biến tại Nhật Bản và trên toàn thế giới (Nintendo, PlayStation, Hello Kitty, Pokémon, Tamagotchi) làm hồi sinh sự tự hào của người Nhật.[4] Nhà báo người Mỹ Douglas McGray ở lại Nhật Bản vào mùa xuân năm 2001 với tư cách một thành viên truyền thông của Japan Society,[5] sau đó Douglas McGray đăng một bài viết gợi dẫn Nhật Bản về chính sách ngoại giao trên Foreign Policy vào mùa xuân 2002[6] và được dịch lại sang tiếng Nhật trên tạp chí văn học Chūōkōron trong số phát hành tháng 5 năm 2003.[4][7] Trong bài viết năm 2002 trên Foreign Policy có tựa đề "Japan's Gross National Cool" [Tổng thú vị quốc gia của Nhật Bản], Douglas McGray viết về Nhật Bản "tái tạo siêu cường quốc" với vai trò ảnh hưởng văn hóa Nhật Bản được mở rộng ra khắp thế giới bất chấp những vấn đề kinh tế và chính trị của thập niên mất mát. Khảo sát văn hóa giới trẻ và vai trò của J-pop, manga, anime, thời trang, điện ảnh, điện tử, kiến trúc, ẩm thực và hiện tượng kawaii như Hello Kitty, Douglas McGray nêu bật vị thế quyền lực mềm của Nhật Bản và đặt ra câu hỏi về thông điệp mà Nhật Bản có thể xây dựng. Douglas McGray cũng lập luận rằng suy thoái kinh tế của Nhật Bản thậm chí có thể đã thúc đẩy thú vị quốc gia bởi tai tiếng thiên vị của cấp bậc xã hội cứng nhắc xưa cũ và con đường sự nghiệp kinh doanh lớn.[6][8][9][10] Cool Japan được cho là một sự tán dương của Nhật Bản với chiến lược Cool Britannia thập niên 1990 tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.[11] 'National Cool' [thú vị quốc gia] là một loại quyền lực mềm được giáo sư Joseph Nye tại đại học Harvard ủng hộ bởi vì đóng góp vào các mục tiêu chính trị và kinh tế của quốc gia thông qua khả năng thu hút công chúng từ các quốc gia khác,[7] bài viết của Douglas McGray cũng được nghiên cứu trong khóa học tiếng Nhật tại đại học Harvard.[12] Một phiên bản mới của chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản thể hiện trong phân tích 'Cool Japan' đó là Nhật Bản giống như một siêu cường quốc văn hóa bắt đầu được bàn luận rộng rãi trong một số tựa sách tiếng Nhật xuất bản (IT Revolution from Japan: Japan Cool Spreading over Asia năm 2004, Imitated Japan: From anime to cooking to fashion năm 2005, Japan's Pop Power: Real Image of Contents that Change the World năm 2006, Cool Japan: Japan That The World Wants to Buy năm 2006).[4] Nhà phê bình văn hóa Azuma Hiroki chỉ ra rằng Douglas McGray thiếu chuyên môn trong các lĩnh vực liên quan đến Cool Japan, đồng thời lập luận phản đối quan điểm cho rằng sự trỗi dậy của Cool Japan bắt trước chiến lược thương hiệu quốc gia 'Cool Britannia' được xúc tiến bởi chính phủ Tony Blair tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong thập niên 1990.[13]
Sức hút từ quy mô thị trường nội địa rộng lớn khiến nhiều công ty hướng về nội địa để tìm kiếm doanh thu an toàn nhưng khi nhu cầu thị trường nội địa giảm bởi sự suy giảm dân số Nhật Bản và các ngành công nghiệp truyền thống đã đạt đỉnh cũng như kinh tế các quốc gia thế giới ngày càng phát triển, 'chiến lược Cool Japan' nhằm tạo ra việc làm trong các ngành công nghiệp liên quan khi có được nhu cầu từ nước ngoài,[14][15] 'chiến lược Cool Japan' sau đó được coi là một chính sách quốc gia của Nhật Bản.[16][17] Cool Japan thường đề cập đến nội dung như văn hóa đại chúng Nhật Bản (điện ảnh, âm nhạc, manga, anime, văn học, kịch, video game) nhưng cũng có thể đề cập đến văn hóa cấp cao Nhật Bản ngày nay (văn hóa ẩm thực, thời trang, nghệ thuật đương đại, kiến trúc) hoặc có thể đề cập đến văn hóa truyền thống Nhật Bản (võ thuật bắt nguồn từ võ sĩ đạo Nhật Bản, ẩm thực Nhật Bản truyền thống, trà đạo, hoa đạo Ikebana, múa buyō, Yosegi). Ngoài ra, các ngành công nghiệp và sản phẩm Nhật Bản (như xe hơi, mô tô, thiết bị điện) có khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu được coi là 'Cool Japan', các sản phẩm từ những ngành công nghiệp vùng và doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản không có tính cạnh tranh thị trường tại nội địa Nhật Bản nhưng có sức hấp dẫn mở ra khả năng cạnh tranh quốc tế thông qua hỗ trợ của chính phủ Nhật Bản thì được định danh là 'Local Cool Japan' trong 'dự án hỗ trợ sản phẩm cho TPP đo lường thương hiệu JAPAN'. Trong mọi trường hợp, tất cả mọi thứ có thể 'thúc đẩy sự hấp dẫn của Nhật Bản và tạo ra việc làm trong các ngành công nghiệp liên quan khi có được nhu cầu từ nước ngoài' đều được định danh là Cool Japan.[18] Trong công nghiệp nội dung (như anime, manga, video game), thâm hụt ngân sách của Nhật Bản dần được thu hẹp cùng với sự phổ biến ngày càng tăng của Cool Japan bởi phí bản quyền sở hữu trí tuệ xuất khẩu nội dung số lượng lớn ở nước ngoài.[19] Cool Japan thành công trong kinh doanh nội địa như du lịch khi cán cân du lịch đạt thặng dư trong năm 2015 và Nhật Bản trở thành một quốc gia du lịch nhờ doanh thu lợi nhuận từ các chuyến tham quan của người nước ngoài.[19][20]
Thông qua
[sửa | sửa mã nguồn]Cool Japan được xuất hiện trên các phương tiện truyền thông quốc tế, The New York Times đăng một hồi tưởng đánh giá "Year in Ideas: Pokémon Hegemon" [Năm của ý tưởng: Bá quyền Pokémon],[21] ngày càng nhiều viên chức chính phủ có tư tưởng cải cách và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp tại Nhật Bản bắt đầu đề cập đến "tổng thú vị quốc gia" và thực hiện khẩu hiệu không chính thức "Cool Japan".[22][23][24] Trong một cuộc họp báo năm 2005, Bộ trưởng Ngoại giao đã gắn kết ý tưởng Cool Japan với khái niệm Tổng hạnh phúc quốc gia của Bhutan.[25]
Cool Japan được xuất hiện nhiều hơn vào giữa thập niên 2000 khi NHK bắt đầu một chương trình dài kỳ Cool Japan Hakkutsu: Kakkoii Nippon! tính đến cuối năm 2009 đã đạt hơn 100 tập.[26] Các sáng kiến học thuật bao gồm việc thành lập một dự án nghiên cứu Cool Japan tại Viện Công nghệ Massachusetts,[27] trong khi một số trường đại học phương Tây đã báo cáo sự gia tăng số lượng ứng viên với các khóa học Nhật Bản học bởi hiệu ứng "cool".[28] Nikkei Business Publications thành lập 'giải Cool Japan' vào năm 2004 để tôn vinh những người đóng góp cho xuất khẩu văn hóa Nhật Bản với vai trò một hạng mục mới của giải nhà sáng tạo Nhật Bản, đại học Meiji thành lập khoa 'Nhật Bản học toàn cầu' vào năm 2007 để nghiên cứu một cách khoa học về Cool Japan.[4]
Sự thông qua Cool Japan cũng đã thúc đẩy những thay đổi trong nghiên cứu văn hóa. Kết quả từ sự mê hoặc của Cool Japan với văn hóa giới trẻ Nhật Bản và các trường nữ sinh, một làn sóng nghiên cứu mới gọi là 'con gái học' tập trung đặc biệt vào trải nghiệm của các cô gái và những người tâm hồn con gái. Từng là một chủ đề tâm lý học thanh thiếu niên hoặc chủ nghĩa nữ quyền trước đây, 'con gái học' xuất hiện từ Cool Japan bao gồm một phân tích liên ngành về văn hóa con gái.[29]
Chính sách quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Từ thập niên 1980, Nhật Bản trở thành nhà xuất khẩu văn hóa đại chúng quan trọng (anime, manga, video game), phim truyền hình Nhật Bản và thần tượng Nhật Bản được các quốc gia tại Đông Á mô phỏng lại như Hàn Quốc.[30] Trước thập niên 2000, xuất khẩu văn hóa đại chúng Nhật Bản hoàn toàn thuộc khu vực tư nhân và không có sự xúc tiến của chính phủ Nhật Bản,[31] chính phủ Nhật Bản khi đó ưu tiên xúc tiến văn hóa tại thị trường nội địa vì cho rằng xuất khẩu văn hóa không phải là một hình thức thương mại lợi nhuận cho kinh tế Nhật Bản.[32] Theo Sugiura Tsutomu, xuất khẩu văn hóa Nhật Bản (truyền thông, bản quyền, xuất bản, thời trang, giải trí, hội họa) tăng từ 497 tỷ JP¥ năm 1992 lên gần 1,5 nghìn tỷ JP¥ năm 2002, tương ứng với giá trị tích lũy 10,5 nghìn tỷ JP¥ từ năm 1992 đến năm 2002.[33] Sugiura Tsutomu ước tính xuất khẩu văn hóa đại chúng Nhật Bản (âm nhạc, video game, anime, điện ảnh, manga), sách, tạp chí, tranh vẽ, nghệ thuật, thủ công mỹ nghệ cũng như biểu diễn, sự kiện, bản quyền sáng chế, nhượng quyền thương mại, thanh toán bản quyền đạt 836 tỷ JP¥ năm 1996 và tăng lên gấp ba lần thành 2,5 nghìn tỷ JP¥ năm 2006; ngược lại xuất khẩu hàng hóa (phi văn hóa và văn hóa) trong thời gian tương ứng tăng 68% (44,7 nghìn tỷ JP¥ năm 1996 lên 75,2 nghìn tỷ JP¥ năm 2006) nhưng không đạt tốc độ cao so với tăng trưởng xuất khẩu văn hóa Nhật Bản.[34] Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản công bố số lượng người nước ngoài học tiếng Nhật ở nước ngoài tăng từ 127.000 năm 1979 lên gần 4 triệu năm 2012 nhờ văn hóa đại chúng Nhật Bản (anime, manga, J-pop).[35] Chính phủ Nhật Bản siết chặt vấn đề vi phạm bản quyền và nêu rõ trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) ký kết giữa Nhật Bản và các quốc gia láng giềng châu Á, các chi nhánh Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) tại Đông Á và Đông Nam Á tổ chức các hội thảo thực thi chống vi phạm bản quyền dành cho thẩm phán và hải quan nước ngoài.[36]
Chiến lược Cool Japan gồm hai mục tiêu là thúc đẩy xuất khẩu công nghiệp văn hóa Nhật Bản và giới thiệu hình ảnh Nhật Bản thân thiện ở nước ngoài. Các tác nhân chính phủ Nhật Bản liên quan đến Cool Japan gồm: Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI), Bộ Ngoại giao (MOFA), Bộ Nội vụ và Truyền thông (MIC), trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ (IPSH) thuộc Văn phòng Nội các, Bộ trưởng chiến lược Cool Japan, Cục Văn hóa thuộc Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ (MEXT), Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản, Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO), Cục Du lịch Nhật Bản (JTA) thuộc Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch (MLIT), J-LOP, J-LOP +, quỹ Cool Japan.[37]
Báo cáo nghiên cứu về công nghiệp nội dung của chính phủ Nhật Bản[38] | ||||
---|---|---|---|---|
Thập niên | Số lượng báo cáo nghiên cứu | |||
Nội dung liên quan | video game | anime | manga | |
1980 | 0 | 0 | 0 | 0 |
1990 | 97 | 17 | 5 | 1 |
2000 | 516 | 43 | 82 | 37 |
- 1994, thuật ngữ 'nội dung' được sử dụng lần đầu tiên trong một báo cáo của chính phủ Nhật Bản liên quan đến các chương trình phần mềm máy tính (bao gồm cả video game). Chính phủ Nhật Bản ban đầu cho rằng công nghiệp nội dung đề cập đến công nghiệp video game phổ biến toàn cầu, sau đó mở rộng thêm anime và manga.[38]
- 1997
- Cục Văn hóa bắt đầu hỗ trợ triển lãm về manga, anime, video game và nghệ thuật truyền thông.[39]
- 1998
- tháng 9, hải quan Hồng Kông thu giữ 200.000 video CD phim truyền hình Nhật Bản vi phạm bản quyền với tổng giá trị 250.000 US$ tại Vượng Giác. Đại diện một kênh truyền hình Nhật Bản thừa nhận thực tế rất nhiều video CD phim truyền hình Nhật Bản bị bán lậu.[40]
- 2000
- 21 tháng 9, thủ tướng Nhật Bản Mori Yoshirō sử dụng từ 'nội dung' trong tài liệu chính phủ với bài phát biểu chính sách chung tại phiên họp thứ 150 của Quốc hội Nhật Bản, đề xuất một 'triển lãm internet' trực tuyến để kích thích sự phổ biến internet.[41][42]
- tháng 11, sách trắng năm tài chính 2000 của Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ (MEXT) thừa nhận anime và manga là một phần của văn hóa truyền thống Nhật Bản.[43]
- 2001
- 6 tháng 1, theo Cải tổ Bộ Cục Trung ương 2001, Cục Chính sách Thông tin Thương mại thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp thành lập phòng Công nghiệp Nội dung Truyền thông (phòng Nội dung Truyền thông).[44] Chính sách mục tiêu nhằm mở rộng thị trường công nghiệp nội dung ở nước ngoài và tạo việc làm trong thị trường lao động nội địa Nhật Bản. Cựu giám đốc phòng Công nghiệp Nội dung Truyền thông Hirozane Ikuro nói rằng các chính sách công nghiệp kinh diển của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp đã áp dụng cho lĩnh vực sản xuất chế tạo trong thập kỷ thứ 30 thuộc thời kỳ Chiêu Hòa (giai đoạn 1955 - 1965) có ảnh hưởng nền tảng đến việc nuôi dưỡng công nghiệp nội dung.[4] Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp phát hành báo cáo 'điều kiện và vấn đề hiện tại của công nghiệp anime' để thể hiện sự hỗ trợ chính thức.[45]
- 2002
- 4 tháng 2, thủ tướng Nhật Bản Koizumi Junichirō có bài phát biểu chính sách chung tại phiên họp Quốc hội Nhật Bản lần thứ 154 với tuyên bố chính phủ Nhật Bản tiến hành thực hiện chính sách 'quốc gia sở hữu trí tuệ' nhằm tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của các ngành công nghiệp Nhật Bản thông qua việc thành lập hội nghị chiến lược sở hữu trí tuệ.[46]
- 25 tháng 2, chính phủ Nhật Bản quyết định tổ chức hội nghị chiến lược sở hữu trí tuệ.[47]
- 20 tháng 3, 'hội nghị chiến lược sở hữu trí tuệ' đầu tiên được tổ chức.[48]
- 3 tháng 7, hội đồng chiến lược sở hữu trí tuệ đưa ra 'đề cương chiến lược sở hữu trí tuệ' hỗ trợ sáng tạo nội dung xuất sắc, khuyến khích bảo vệ và phân phối sáng tạo nội dung.[16][48] Theo đề cương, mục tiêu của chính phủ Nhật Bản là Nhật Bản trở thành 'một quốc gia dựa trên sở hữu trí tuệ' (kết nối sáng tạo trong một số lĩnh vực như công nghệ và văn hóa với sự phát triển của các ngành công nghiệp) nhằm khôi phục khả năng cạnh tranh của kinh tế Nhật Bản so với các quốc gia có chi phí lao động rẻ tại Đông Á và Đông Nam Á.[49]
- 1 tháng 8, hiệp hội phân phối hải ngoại nội dung (CODA) được thành lập gồm các nhà cung cấp nội dung và các tổ chức liên quan đến bản quyền của Nhật Bản, mục tiêu chống vi phạm bản quyền và thúc đẩy phân phối hợp pháp nội dung Nhật Bản ra quốc tế; hiệp hội phân phối hải ngoại nội dung (CODA) được thành lập theo lời kêu gọi của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp và Cục Văn hóa.[50] CODA tiến hành một số hoạt động chống vi phạm bản quyền với sự hỗ trợ của cảnh sát nước ngoài tại Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 2 năm 2008: 5.281 trường hợp vi phạm bản quyền được xác định, 1.575 vụ bắt giữ, hơn 4 triệu Video CD/DVD bị tịch thu.[51] Chủ tịch Sony Interactive Entertainment Tetsuhiko Yasuda thực hiện chiến lược chống vi phạm bản quyền bằng cách tạo ra các sản phẩm khó sao chép (PlayStation 3, đĩa Blu-ray).[52]
- 4 tháng 12, đạo luật cơ bản sở hữu trí tuệ được ban hành.[48]
- 14 tháng 12, kế hoạch cơ bản 2002 về 'quản lý kinh tế, tài chính và cải cách cơ cấu' trong cuộc họp nội các đã kêu gọi Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch (MLIT) gia tăng khách du lịch nội địa. Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch phát triển 'chiến lược du lịch toàn cầu' để quảng bá 'chiến dịch Visit Japan' thông qua truyền thông đại chúng khi quyết định bổ nhiệm nữ ca sĩ Puffy AmiYumi làm đại sứ thiện chí tại Hoa Kỳ năm 2005.[4][53]
- 2003
- 16 tháng 1, 'hội nghị chiến lược sở hữu trí tuệ' lần thứ tám được tổ chức.[48]
- 31 tháng 1, thủ tướng Nhật Bản Koizumi Junichirō có bài phát biểu chính sách chung tại phiên họp Quốc hội Nhật Bản lần thứ 156 hoan nghênh 'chất lượng nghệ thuật của phim hoạt hình (Sen và Chihiro ở thế giới thần bí) được ca ngợi trên toàn thế giới, được công nhận Gấu Vàng cho phim hay nhất của Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 52 và giải phim hoạt hình hay nhất của Hội phê bình phim New York'.[54]
- 1 tháng 3, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ được Văn phòng Nội các thành lập,[4][16][47] đạo luật cơ bản sở hữu trí tuệ chính thức có hiệu lực.[4] Trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ chịu trách nhiệm điều phối ngân sách, phân tích và điều chỉnh chính sách liên quan đến thúc đẩy công nghiệp nội dung của các bộ thuộc chính phủ Nhật Bản; hòa giải xung đột giữa các bộ trong các chính sách thúc đẩy công nghiệp văn hóa Nhật Bản.[55]
- tháng 3, Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp công bố nghiên cứu xuất khẩu công nghiệp nội dung đầu tiên 'điều kiện thực tế và triển vọng của thị trường anime tại Hoa Kỳ'.[4][56] Các báo cáo về xuất khẩu công nghiệp nội dung của Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản sau này tiếp mở rộng tại nhiều quốc gia và khu vực khác nhau ở châu Á, châu Âu, Nam Mỹ.[4]
- 1 tháng 4
- thành lập 'phòng xúc tiến chiến lược sở hữu trí tuệ' tại Văn phòng Nội các.
- thành lập trụ sở 'chiến dịch Visit Japan'.
- 24 tháng 4, 'nhóm nghiên cứu chiến lược quốc tế về công nghiệp nội dung' đầu tiên được tổ chức.[57]
- 8 tháng 7, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ xây dựng chương trình chiến lược 'sáng tạo, sản xuất, sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ',[58] một cuộc họp nghiên cứu chuyên ngành về chính sách được thành lập.[59]
- 15 tháng 7, phòng Công nghiệp Nội dung Truyền thông thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp thành lập 'nhóm nghiên cứu chiến lược quốc tế công nghiệp nội dung' với các hướng dẫn tạm thời nhằm thúc đẩy công nghiệp nội dung trở thành ngành công nghiệp mới dẫn dắt kinh tế Nhật Bản, góp phần nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia trong khía cạnh văn hóa và kinh tế.[60]
- 12 tháng 10, sự hiện hàng năm hội nghị thượng đỉnh cosplay thế giới được Aichi Television Broadcasting tổ chức lần đầu tiên tại Nagoya với sự hỗ trợ từ Bộ Ngoại giao.[4]
- Keidanren tổ chức 'hội nghị khu vực công nghiệp nội dung giải trí' năm 2003 và đệ trình báo cáo 'hướng đến xúc tiến công nghiệp nội dung giải trí' tới chính phủ Nhật Bản, báo cáo của Keidanren được đề cập trong báo cáo của phòng Công nghiệp Nội dung Truyền thông vào ngày 17 tháng 2 năm 2005.[4][61]
- Trung tâm trao đổi quốc tế Nhật Bản (JCIE) thuộc Bộ Ngoại giao xuất bản báo cáo năm 2003 'ngoại giao trong một kỷ nguyên mới và vai trò mới của trao đổi quốc tế: hướng tới sự tham gia của Nhật Bản trong hệ thống quan điểm toàn cầu' là một trong những tài liệu chính phủ đầu tiên trích dẫn bài viết của Douglas McGray trên Foreign Policy. Báo cáo nhận định cốt lõi hình ảnh quốc gia Nhật Bản rất quan trọng đối với nền kinh tế và các hệ thống xã hội, đề xuất Nhật Bản cần xây dựng và quảng bá một hình ảnh quốc gia mới bằng cách sử dụng các sản phẩm văn hóa của Cool Japan.[4]
- 1 tháng 10, pháp nhân đặc biệt Hiệp hội Xúc tiến Du lịch Quốc tế thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch (Cục Du lịch Nhật Bản quản lý) đã trở thành một cơ quan hành chính độc lập và trở thành Cơ quan Du lịch Quốc tế (thường gọi là Cơ quan Xúc tiến Du lịch Nhật Bản).
- 2004
- 19 tháng 1, thủ tướng Nhật Bản Koizumi Junichirō có bài phát biểu chính sách chung tại phiên họp Quốc hội Nhật Bản lần thứ 159 với cam kết nuôi dưỡng công nghiệp nội dung, đề cập đến thúc đẩy thương mại sở hữu trí tuệ (như anime, manga, video game), phát triển quốc gia giàu mạnh bằng cách tận dụng văn hóa và nghệ thuật.[62]
- 27 tháng 4, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ phát hành 'chính sách xúc tiến thương mại nội dung: chiến lược quốc gia trong kỷ nguyên quyền lực mềm' nêu bật công nghiệp nội dung giữ vai trò trụ cột của chiến lược quốc gia bởi quy mô thị trường, tác động kinh tế đối với các ngành công nghiệp khác và quyền lực mềm mạnh mẽ.[4][63] Báo cáo nhấn mạnh công nghiệp nội dung Nhật Bản dù đạt 11 nghìn tỷ JP¥ năm 2004 nhưng chỉ chiếm 2% GDP Nhật Bản so với 5% tại Hoa Kỳ và 3% của trung bình quốc tế.[63]
- 27 tháng 5, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ kêu gọi các phái bộ ngoại giao Nhật Bản, Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO), Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản hỗ trợ phổ biến văn hóa đại chúng Nhật Bản ở nước ngoài, tập trung vào công nghiệp nội dung được thông qua trong 'kế hoạch xúc tiến sở hữu trí tuệ 2004' gồm công nghệ, thiết kế, thương hiệu và các sản phẩm nội dung (anime, manga, âm nhạc, điện ảnh, video game).[64]
- Cục Văn hóa tổ chức 'hội thảo chuyên đề phân phối nội dung' bắt đầu từ năm 2004, một sự kiện hàng năm để thảo luận về hệ thống phân phối và hợp đồng sở hữu trí tuệ.[4]
- 4 tháng 6, 'Đạo luật Xúc tiến sáng tạo, Bảo vệ và Sử dụng nội dung' được ban hành[16] (một số tên gọi khác là 'luật Xúc tiến Nội dung', 'luật Xúc tiến Công nghiệp Nội dung', 'luật Chấn hưng hóa Nội dung'). Thuật ngữ 'nội dung' theo đạo luật bao gồm anime, âm nhạc, video game, manga, phim truyền hình, điện ảnh.[65] Sau khi đạo luật được ban hành, Bộ Ngoại giao (MOFA), Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF), Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch (MLIT), Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi (MHLW), Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO), Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tham gia thực hiện Cool Japan cùng với Văn phòng Nội các, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI), Cục Văn hóa, Bộ Nội vụ và Truyền thông (MIC). Ngân sách trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ thời kỳ Nội các Koizumi tăng đều đặn từ 115,7 tỷ JP¥ năm 2004 lên 122,8 tỷJP¥ năm 2008 nhưng sau đó ngân sách giảm mạnh khi đảng Dân chủ (DPJ) nắm quyền năm 2009.[38]
- Gonzo, Japan Digital Content, Rakuten Securities và JET Securitie tạo ra quỹ anime đầu tiên để giải quyết vấn đề tài chính.[66]
- 2005
- trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ công bố bổ sung quyền lực mềm thông qua thời trang và ẩm thực Nhật Bản.[4]
- 17 tháng 2, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp công bố báo cáo xúc tiến công nghiệp nội dung qua hai chính sách: bảo vệ sở hữu trí tuệ và thúc đẩy thương mại cấp phép ở thị trường nước ngoài.[4][61]
- tháng 6, Japan Digital Content và Tổ chức doanh nghiệp vừa và nhỏ và đổi mới khu vực (một cơ quan chính phủ độc lập) tài trợ một quỹ mạo hiểm trị giá 500 triệu JP¥ dành cho sản xuất nội dung.[66]
- 2006
- 2 tháng 2, Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch lập ngân sách 67 triệu JP¥ để thực hiện 'nghiên cứu về tái tạo sinh khí vùng thông qua trao đổi du lịch quốc tế bằng cách sử dụng anime Nhật Bản' cùng với sự tham gia của Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ. Ý tưởng cơ bản là thu hút khách du lịch nội địa với anime nổi tiếng toàn cầu.[67]
- 28 tháng 4, Bộ trưởng Ngoại giao Asō Tarō có bài phát biểu tựa đề 'một cách nhìn mới về ngoại giao văn hóa: một lời kêu gọi các nhà văn hóa của Nhật Bản' với sự ca ngợi về văn hóa truyền thống rực rỡ (Nō, Bunraku, trà đạo, Ikebana) và sức hấp dẫn của văn hóa đại chúng Nhật Bản (anime, manga, âm nhạc, thời trang). Giải manga quốc tế được Bộ Ngoại giao tổ chức từ năm 2006 là giải thưởng hàng năm nhằm tôn vinh những tác giả manga không phải người Nhật quảng bá manga tại nước ngoài.[68]
- 2007
- 1 tháng 1, 'luật cơ bản xúc tiến quốc gia du lịch' chính thức có hiệu lực, chính phủ Nhật Bản coi du lịch là một trong những trụ cột của chính sách trong thế kỷ 21 với mục tiêu xúc tiến 'quốc gia du lịch' toàn diện.[69]
- 16 tháng 5, thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzō ủng hộ 'sáng kiến cửa ngõ châu Á năm 2007' với một trong những mục tiêu là 'tạo ra một quốc gia tươi đẹp' có sức hấp dẫn, đáng tin cậy và được tôn trọng.[70] Phần phụ lục 'chiến lược công nghiệp văn hóa Nhật Bản' cho rằng Nhật Bản cần xúc tiến sức hấp dẫn đến thế giới thông qua văn hóa đại chúng Nhật Bản bao gồm lối sống và các giá trị tạo ra văn hóa.[71]
- 31 tháng 5, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ công bố báo cáo đề xuất thúc đẩy xuất khẩu nội dung Nhật Bản, lập pháp bảo vệ sở hữu trí tuệ, phát triển nguồn nhân lực và công nghệ, hỗ trợ tài chính cho sản xuất nội dung.[72]
- 19 tháng 12, 'nhóm nghiên cứu chiến lược toàn cầu' thành lập năm 2006 (tiếp nối 'nhóm nghiên cứu chiến lược quốc tế công nghiệp nội dung' năm 2003) thuộc Cục Chính sách Thông tin Thương mại của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp xuất bản 'báo cáo cuối cùng chiến lược toàn cầu nội dung' đề xuất phương hướng cho công nghiệp nội dung Nhật Bản đạt phạm vi toàn cầu.[73]
- Liên hoan nội dung quốc tế Nhật Bản (Japan International Contents Festival, CoFesta) do Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp tổ chức hàng năm bắt đầu từ năm 2007. CoFesta là một liên hoan nội dung toàn diện kéo dài một tháng với video game, anime, manga, nhân vật, phát sóng, âm nhạc, điện ảnh, thời trang và thiết kế; các sự kiện lớn khác (liên hoan phim quốc tế Tokyo, Tokyo Game Show, tuần lễ thời trang Nhật Bản) được kết hợp trong CoFesta.[4] Uỷ ban điều hành của CoFest thường gồm có Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp, Bộ ngoại giao, Bộ Nội vụ và Truyền thông, Cục Văn hóa, Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản, Cục Du lịch Nhật Bản, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ, Cơ quan Xúc tiến Du lịch Nhật Bản (JNTO).[74]
- 2008
- 19 tháng 3, Bộ trưởng Ngoại giao Kōmura Masahiko bổ nhiệm nhân vật Doraemon là đại sứ anime.[75][76]
- 15 tháng 9, phá sản của anh em nhà Lehman xảy ra, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 ngày càng nghiêm trọng.
- 2009
- 12 tháng 3, Bộ ngoại giao bổ nhiệm ba cô gái làm đại sứ kawaii. Mỗi cô gái mặc một phong cách thời trang dễ thương khác nhau gồm lolita, harajuku, nữ sinh.[4][77] Mục tiêu của ba đại sứ kawaii là 'truyền tải các xu hướng mới của văn hóa đại chúng Nhật Bản trong lĩnh vực thời trang đến phần còn lại của thế giới, thúc đẩy sự hiểu biết về Nhật Bản bằng các dự án văn hóa phụng sự của các đại sứ kawaii do đại sứ quán Nhật Bản và Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tổ chức'.[78]
- 9 tháng 4, thủ tướng Nhật Bản Asō Tarō tuyên bố ba trụ cột 'chiến lược phát triển tương lai' của kinh tế Nhật Bản: dẫn đầu thế giới về cách mạng phát thải cacbon mức thấp, một xã hội trường thọ khỏe mạnh, thúc đẩy sự hấp dẫn của Nhật Bản (điểm đến du lịch hấp dẫn, mở rộng quyền lực mềm Cool Japan).[79]
- 30 tháng 12, Văn phòng Nội các xuất bản 'chiến lược tăng trưởng mới' sau chiến thắng của Đảng Dân chủ (DPJ) trong tuyển cử Chúng Nghị viện với 6 lĩnh vực chiến lược kích thích kinh tế Nhật Bản: môi trường và năng lượng, y tế, du lịch và phục hồi địa phương, thị trường châu Á, khoa học và công nghệ, việc làm và nguồn nhân lực.[80]
- 2010
- tháng 4, Cục Du lịch Nhật Bản liên kết với Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch khởi xướng chiến dịch 'Japan. Endless Discovery' với biểu trưng gồm mặt trời mọc màu đỏ và hoa anh đào,[81][82] đại sứ dự án là nhóm nhạc thần tượng Nhật Bản Arashi thực hiện các chuyến thăm đến những khu vực khác nhau ở Nhật Bản để tái khám phá đất nước và giới thiệu các sản phẩm địa phương.[82]
- 3 tháng 6, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp xuất bản báo cáo 'tầm nhìn cấu trúc công nghiệp 2010' đề xuất tập trung vào 5 ngành công nghiệp chiến lược: hệ thống hạ tầng/xuất khẩu, công nghiệp năng lượng/môi trường, công nghiệp văn hóa, y tế/chăm sóc sức khỏe, công nghệ cao (robot, máy bay, kỹ thuật hàng không vũ trụ, siêu dẫn nhiệt độ cao, công nghệ nano, hóa học chức năng, dược phẩm sinh học, sợi carbon, công nghệ thông tin, kim loại quý). Xuất khẩu công nghiệp nội dung Nhật Bản năm 2010 chiếm 1,9% GDP và thấp khi so với xuất khẩu văn hóa của Hoa Kỳ đạt 17,8% GDP, báo cáo khuyến nghị thành lập 'quỹ phát triển hải ngoại nội dung' để khai thác triệt để tiềm năng doanh thu công nghiệp nội dung Nhật Bản ở nước ngoài.[83]
- 8 tháng 6, 'phòng Cool Japan' được khai trương tại Cục Công nghiệp chế tạo thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp.[84]
- 18 tháng 6, Nội các Kan quyết định xuất bản 'chiến lược tăng trưởng mới' và 'triển khai hải ngoại Cool Japan' (âm nhạc, du lịch, nội dung, thời trang, văn hóa truyền thống, ẩm thực, thiết kế) trở thành một trong 21 dự án đại chiến lược của Nhật Bản.[16][17]
- 19 tháng 11, 'hội nghị chuyên gia công-tư Cool Japan' được tổ chức lần đầu tiên.[85]
- 2011
- 11 tháng 3, động đất và sóng thần Tōhoku 2011 xảy ra.[82]
- 17 tháng 3, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ xuất bản 'kế hoạch hành động xúc tiến Cool Japan' với hai mục tiêu: tái tạo kinh tế Nhật Bản thông qua hiệu ứng gợn sóng nhờ sự phổ biến các sản phẩm Cool Japan, gia tăng quyền lực mềm của Nhật Bản ở nước ngoài. Chính phủ Nhật Bản đặt mục tiêu nâng quy mô thị trường các ngành công nghiệp liên quan đến Cool Japan (video game, manga, anime, thời trang, ẩm thực, thủ công, thiết kế, robot, sản phẩm công nghệ cao) từ 4,5 nghìn tỷ JP¥ năm 2009 lên 17 nghìn tỷ JP¥ năm 2020.[86]
- 12 tháng 5, 'hội nghị chuyên gia công-tư Cool Japan' đưa ra một đề xuất mang tên ''sáng tạo của Nhật Bản mới' kết nối công nghiệp văn hóa 'Nhật Bản và hải ngoại''.[87] Theo đề xuất, cần khẩn cấp xua tan những thiệt hại tai tiếng do động đất gây ra và khôi phục lại niềm tin các nhãn hiệu Nhật Bản thông qua cách tiếp cận chính:
- Tái khám phá và gửi đi nhiều thứ và nội dung hiện có ở các vùng khác nhau thuộc Nhật Bản
- Xuất khẩu chúng
- Kết nối thu hút khách du lịch.[88]
- 10 tháng 6, "Futur en Seine" (23 tháng 6 - 26 tháng 6) tổ chức cùng năm tại Paris ở Pháp với vai trò là phần giải ngân đầu tiên của dự án xúc tiến chiến lược Cool Japan; Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp tuyên bố dự án hỗ trợ phát triển thị trường nước ngoài "Village Japon" sẽ được ra mắt tại Japan Expo (30 tháng 6 - 3 tháng 7).[88]
- 1 tháng 7, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp thực hiện một số cải tổ tổ chức: Cục Chính sách Thông tin Thương mại thành lập 'phòng Công nghiệp sáng tạo văn hóa đời sống' (phòng Công nghiệp sáng tạo) bắt nguồn từ sự hợp nhất của phòng Cool Japan, phòng Chính sách hệ thống và Thiết kế sinh hoạt dân sinh, phòng Chính sách thời trang. Cục Văn hóa và phòng Công nghiệp Nội dung Truyền thông tiếp tục hoạt động độc lập, cả hai cơ quan cùng xúc tiến Cool Japan.[89]
- 13 tháng 9, 'văn phòng xúc tiến chiến lược sở hữu trí tuệ' công bố thông điệp biểu trưng mới của Cool Japan là 'JAPAN NEXT' (thiết kế bởi Satou Kashiwa), thủ tướng Noda Yoshihiko đưa ra quyết định cuối cùng từ tất cả 99 bản phác thảo thiết kế chào bán công khai.[90] Ngoài ra, một nhãn hiệu biểu trưng thống nhất là 'Japan. Cool Japan.' được thiết kế bởi Văn phòng Nội các với họa tiết hoa anh đào, 'Japan. Cool Japan.' được sử dụng như là nhãn hiệu biểu trưng thống nhất khi truyền tải Cool Japan ra nước ngoài (nếu khu vực tư nhân muốn sử dụng biểu trưng, cần đăng ký với 'văn phòng xúc tiến chiến lược sở hữu trí tuệ' của Văn phòng Nội các).[91]
- 31 tháng 10, tỷ giá JP¥ tăng mức cao nhất sau chiến tranh thế giới thứ hai là 75,32 JP¥/ 1 US$ tại một thời điểm trên thị trường đồng yên Nhật.
Video game | Mỹ phẩm | Thời trang | Điện ảnh | Âm nhạc | Sách | Tạp chí | Bản quyền | Du lịch | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Xuất khẩu | 293 | 129,2 | 37,6 | 4,6 | 2,2 | 7,3 | 4,3 | 131,7 | 875,2 |
Nhập khẩu | 2,1 | 167,4 | 1.851,6 | 40,8 | 24 | 21,7 | 7,2 | 700,7 | 2.171,6 |
Cán cân thương mại | 290,9 | -38,2 | -1,814 | -36,2 | -21,8 | -14,4 | -2,9 | -569 | -1.296,3 |
- 2012
- 1 tháng 3, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ thuộc Văn phòng Nội các công bố tổ chức sự kiện chiến dịch JAPAN NEXT tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ (Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Pháp, Hàn Quốc, Úc, Thái Lan, Ấn Độ, Hồng Kông, Singapore, Đức, Iceland, Thụy Sĩ, Áo, Ý, Hà Lan, Vương quốc Liên hiệp Anh và Iceland) để bày tỏ lòng biết ơn của Nhật Bản đối với thế giới vì đã hỗ trợ tái thiết sau động đất và sóng thần Tōhoku 2011.[93]
- tháng 3, 'lễ kỷ niệm 100 năm tặng hoa anh đào Nhật Bản - Hoa Kỳ' được tổ chức vào lễ hội hoa anh đào Hoa Kỳ lần thứ 52 tại Washington, D.C.[94] Dự án phổ biến văn hóa Nhật Bản được tổ chức cùng thời gian tại sự kiện lễ hội hoa anh đào Hoa Kỳ lần thứ 52 gồm: buổi biểu diễn trực tiếp của dàn nhạc Jazz đại học Tohoku,[95] buổi biểu diễn trực tiếp của 'sứ giả Cool Japan' ca sĩ Misia theo thỉnh cầu của Văn phòng Nội các,[96] một buổi hòa nhạc miễn phí của AKB48 đã được tổ chức trong vai trò như một dự án phổ biến văn hóa đại chúng Nhật Bản đương đại.[97]
- 1 tháng 9, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp xuất bản 'chiến lược Cool Japan' công bố quy mô xuất khẩu công nghiệp sáng tạo Nhật Bản đạt 2,3 nghìn tỷ JP¥ năm 2012, mong muốn quy mô xuất khẩu công nghiệp sáng tạo Nhật Bản ra thị trường toàn cầu đạt 8 nghìn tỷ JP¥ đến 11 nghìn tỷ JP¥ năm 2020. Mục tiêu hình thành cộng đồng người hâm mộ nước ngoài nhờ hiệu quả xúc tiến nội dung Nhật Bản và thúc đẩy họ trở thành khách du lịch đến tham quan Nhật Bản.[98]
- 15 tháng 11, ngay sau khi giải tán Chúng Nghị viện, Nikkei 225 tăng và JP¥ sụt giá bởi sự nắm quyền trở lại của Đảng Dân chủ Tự do với các biện pháp khắc phục giảm phát và nới lỏng định lượng (Abenomics).[99]
- 26 tháng 12, Nội các Abe lần 2 ra mắt, Bộ trưởng Nội các Đặc trách Inada Tomomi trở thành 'Bộ trưởng chiến lược Cool Japan' đầu tiên.
- 2013
- Hội đồng xúc tiến Cool Japan lần đầu được tổ chức vào ngày 4 tháng 3 với sự góp mặt của thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzō và 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Inada Tomomi;[100] 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Inada Tomomi chủ trì lần hai vào ngày 3 tháng 4,[101] lần ba vào ngày 30 tháng 4,[102] lần bốn vào ngày 28 tháng 5.[103]
- Tiểu ban về văn hóa đại chúng họp tại Văn phòng Nội các lần đầu vào ngày 9 tháng 4[104] và lần hai vào ngày 25 tháng 4.[105]
- 12 tháng 6, Tham Nghị viện phê duyệt quỹ Cool Japan trị giá 20 triệu US$ hoạt động trong 20 năm do Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp giám sát và liên kết với các nhà đầu tư tư nhân để hướng tới mục tiêu quỹ đạt giá trị 600 triệu US$; chiến dịch nhằm quảng bá anime, manga, phim ảnh, thiết kế, thời trang, ẩm thực và du lịch Nhật Bản với nước ngoài.[106]
- 22 tháng 6, núi Phú Sĩ - Đối tượng tín ngưỡng và nguồn gốc nghệ thuật đã được đăng ký là một di sản thế giới UNESCO (di sản văn hóa).
- 7 tháng 9, Thế vận hội Mùa hè 2020 và Paralympic Mùa hè 2020 sẽ được tổ chức tại Nhật Bản.
- 22 tháng 9, 'Tokyo Crazy Kawaii Paris' (được tài trợ bởi các ủy ban điều hành của các công ty Nhật Bản như Dentsu, Dai Nippon Printing) nhấn mạnh vào văn hóa chính (thời trang, âm nhạc, người sành ăn) và tiểu văn hóa (anime và video game, manga, hàng hóa nhân vật); 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Inada Tomomi đã xuất hiện trong trang phục thời trang lolita để quảng bá văn hóa Nhật Bản.[107][108]
- 13 tháng 10, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp xuất bản ấn phẩm "Roots of Japan — Unearthing the Cultural Matrix of Japan" nói về 'Nhật Bản sáng tạo' như một bước tiến của Cool Japan, làm rõ các khái niệm từ lâu đời được truyền lại về mặt lịch sử và văn hóa.[109][110]
- 18 tháng 10, Nhật Bản tổ chức 'tuần lễ thời trang Tokyo' hai năm một lần với vai trò chính của chiến lược Cool Japan. Phó giám đốc phòng công nghiệp sáng tạo thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp cho biết 'hình ảnh Cool Japan là anime và manga nhưng cái chúng tôi muốn là bán đồ và các dịch vụ. Điều thực sự dễ tiếp cận nhất theo nghĩa này là thời trang và thiết kế nội thất, nhu cầu của cuộc sống'.[111]
- 22 tháng 10, 'ẩm thực Nhật Bản: văn hóa ẩm thực truyền thống của Nhật Bản' được khuyến khích đăng ký kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại UNESCO (đăng ký ngày 4 tháng 12 cùng năm).[112]
- 25 tháng 11, quỹ công - tư 'tổ chức hỗ trợ khai thác nhu cầu hải ngoại' (quỹ Cool Japan) được thành lập.[113]
- 14 tháng 12, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Kyōto thuộc Kyōto do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Inada Tomomi chủ trì.[114]
- 2014
- 22 tháng 3, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Matsuyama thuộc Ehime do thứ trưởng Văn phòng Nội các Gotoda Masazumi chủ trì.[115]
- tháng 4, Liên đoàn Nhà sản xuất âm nhạc Nhật Bản (FMPJ) hợp tác với Dentsu thành lập một liên doanh xuất khẩu âm nhạc 'Japan Night'.[116]
- 'Bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Inada Tomomi chủ trì 'hội nghị xúc tiến phong trào Cool Japan' lần đầu tiên vào 21 tháng 4,[117] lần hai vào ngày 28 tháng 5,[118] lần ba vào ngày 27 tháng 6,[119] lần bốn vào ngày 31 tháng 7.[120]
- 7 háng 6, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Kaga thuộc Isikawa do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Inada Tomomi chủ trì.[121]
- 28 tháng 7, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp thực hiện chiến dịch "Manga-Anime Guardians Project", xóa bỏ 580 tác phẩm vi phạm bản quyền trong 5 tháng và ra mắt website bản quyền "Manga-Anime here" phục vụ người dùng miễn phí.[122]
- 26 tháng 8, 'đề xuất Cool Japan' được đề xuất tại 'hội nghị xúc tiến phong trào Cool Japan' lần thứ năm;[123][124] Bộ trưởng Nội các Đặc trách Inada Tomomi tuyên bố sứ mệnh của Cool Japan là "Nhật Bản giải quyết các vấn đề của thế giới một cách sáng tạo" được công khai trong mục tiêu phát triển bền vững (SDGs).[124][125]
- 3 tháng 9, Nội các Abe lần 2 (cải tổ) ra mắt cùng ngày, Bộ trưởng Nội các Đặc trách Yamaguchi Shunichi trở thành 'Bộ trưởng chiến lược Cool Japan' thứ hai (trong Nội các Abe lần 3, Yamaguchi Shunichi tiếp tục đảm nhiệm).
- 5 tháng 9, Cơ quan Xúc tiến Du lịch Nhật Bản và quỹ Cool Japan hợp tác hướng tới Thế vận hội Mùa hè 2020 và Paralympic Mùa hè 2020.[126]
- 16 tháng 10, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp thực hiện chiến dịch "Join Us, Friends" xóa 170.000 mục của 180 website (chiếm 67% tổng số bản sao lậu) vi phạm bản quyền anime và manga.[127]
- 25 tháng 10, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Sendai thuộc Miyagi do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Yamaguchi Shunichi chủ trì.[128]
- 11 tháng 12, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp công bố 'sáng kiến Cool Japan' nhằm mục tiêu kết nối với khu vực tư nhân, phát triển công nghiệp sáng tạo (công nghiệp nội dung, thời trang/mỹ phẩm, ẩm thực, du lịch) cùng với các chính sách hỗ trợ.[92]
- 2015
- 'hội nghị xúc tiến chiến lược Cool Japan' đầu tiên được tổ chức vào ngày 27 tháng 1,[129] lần hai vào ngày 25 tháng 2,[130] lần ba vào ngày 26 tháng 3,[131] lần bốn vào ngày 22 tháng 4,[132] lần năm vào ngày 26 tháng 5,[133] lần sáu vào ngày 17 tháng 6.[134]
- 17 tháng 3, Cục Văn hóa xây dựng một cơ sở dữ liệu văn hóa truyền thông (phiên bản phát triển) dưới dạng lưu trữ kỹ thuật số trong bốn lĩnh vực: manga, anime, video game, nghệ thuật truyền thông với mục tiêu hỗ trợ đa ngôn ngữ trong tương lai.[135]
- 21 tháng 3, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Tukuba thuộc Ibaraki do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Yamaguchi Shunichi chủ trì.[136]
- tháng 6, tập đoàn Kodokawa công bố 'tầm nhìn rừng Cool Japan' thông qua xây dựng một khu phức hợp tập trung vào văn hóa đại chúng Nhật Bản nhằm biến Tokorozawa thuộc Saitama thành một trung tâm dẫn dắt phong trào Cool Japan, dự án đầu tư khoảng 30 tỷ JP¥.[137]
- 20 tháng 6, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Tottori thuộc Tottori do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Yamaguchi Shunichi chủ trì.[138]
- 30 tháng 6, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp cùng với Cục Văn hóa công bố kết quả của 'nhóm nghiên cứu phục hồi kinh tế khu vực sử dụng tài nguyên Cool Japan dành cho du lịch' nhằm gia tăng số lượng và mức tiêu dùng của khách du lịch nước ngoài khi đến thăm Nhật Bản.[139]
- 29 tháng 8, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Sapporo thuộc Hokkaidō do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Yamaguchi Shunichi chủ trì.[140]
- 7 tháng 10, Nội các Abe lần 3 (cải tổ lần 1) ra mắt cùng ngày, Shimajiri Aiko trở thành 'Bộ trưởng chiến lược Cool Japan'.
- 11 tháng 10, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Tokushima thuộc Tokushima do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Yamaguchi Shunichi chủ trì.[141]
- 2016
- Cục Văn hóa ra mắt website Japan Local Database (JL-DB, Cơ sở dữ liệu địa điểm Nhật Bản) nhằm cung cấp địa điểm nhiếp ảnh xúc tiến du lịch 'hành hương thánh địa' anime dành cho người hâm mộ và các nhà làm phim, chi phí vận hành cơ sở dữ liệu các địa điểm nhiếp ảnh là 15,966 triệu JP¥ năm 2016 và 15,993 triệu JP¥ năm 2017.[142]
- 3 tháng 8, Nội các Abe lần 3 (cải tổ lần 2) ra mắt cùng ngày, Tsuruho Yōsuke trở thành 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan'. Đây là vị trí được bổ nhiệm thuộc quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cho đến nay (Bộ trưởng Nội các Đặc trách), nhưng lần này Tsuruho Yōsuke được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Nội các Đặc trách chính thức theo lệnh của Văn phòng Nội các.
- chính phủ Nhật Bản thành lập 'hội nghị đầu tư tương lai' do thủ tướng Nhật Bản chủ trì, mục đích đề xuất các chiến lược tăng trưởng tổng hợp cho các bộ và các cơ quan chính phủ; một chiến lược đang được xem xét liên quan đến việc cố gắng kích thích thị trường nghệ thuật Nhật Bản.[143]
- 13 tháng 11, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Beppu thuộc Ōita nhằm chia sẻ thông tin về các điểm tham quan như các suối nước nóng Onsen và tiếp cận các quan điểm từ nước ngoài.[144][145]
- 2017
- 4 tháng 3, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại Okinawa do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Tsuruho Yōsuke chủ trì.[146]
- 8 tháng 3, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp phát hành ấn phẩm "Wonder Nippon: Sekai ga Odoroku Nippon!" (Nhật Bản tuyệt vời: Nhật Bản ggây ngạc nhiên cho thế giới!) nhằm giới thiệu các khái niệm văn hóa Nhật Bản, truyền đạt sự nhạy cảm và giá trị độc đáo của Nhật Bản tới thế giới.[147]
- tháng 4, Bộ Ngoại giao thành lập Japan House tại Luân Đôn (Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Iceland), Los Angeles (Hoa Kỳ), São Paulo (Brasil) nhằm thúc đẩy sự hiểu biết sâu sắc hơn về Nhật Bản;[148] dự án được đầu tư 35 triệu US$ đóng vai trò là 'cửa hàng một điểm đến' dành cho khách tham quan các khía cạnh đa dạng của văn hóa, khu vực, lối sống, giá trị, công nghiệp Nhật Bản.[149]
- 15 tháng 7, 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' được tổ chức tại thành phố Iwade thuộc Wakayama do bộ trưởng chiến lược Cool Japan Tsuruho Yōsuke chủ trì.[150][151]
- 21 tháng 7, 'hội thảo Cool Japan Ōsaka' được tổ chức tại Ōsaka là hội thảo vùng lần đầu tiên.[152]
- 3 tháng 8, Nội các Abe lần 3 (cải tổ lần 3) ra mắt cùng ngày, Matsuyama Masaji đang giữ chức 'hội nghị quốc dân hoạt động tổng 100 triệu' được bổ nhiệm làm 'Bộ trưởng chiến lược Cool Japan' (giống như Tsuruho Yōsuke, Matsuyama Masaji được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Nội các Đặc trách) và tiếp tục đảm nhận trong Nội các Abe lần 4.
- 21 tháng 8, 'hội thảo Cool Japan Harima' được tổ chức tại Kakogawa là hội thảo vùng lần thứ hai.[153]
- 4 tháng 9, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tổ chức hội thảo chuyên đề 'Cool Japan: Creation, Production, and Fabrication of the Cool' tại Trung tâm nghiên cứu văn hóa vật thể ở Hà Lan. Hội nghị đề cập đến sự phát triển và những cách hiểu khác nhau về Cool Japan, từ khởi nguồn sản xuất một loại hình văn hóa đại chúng độc đáo đến ảnh hưởng đối ứng giữa văn hóa đại chúng Nhật Bản và thế giới.[154]
- 14 tháng 9, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp công bố áp dụng kết quả 'dự án hỗ trợ sản xuất thương hiệu Nhật Bản'; tư vấn về 12 dự án được lựa chọn trong lĩnh vực sản xuất chế tạo, ẩm thực và du lịch, xây dựng mạng lưới và hỗ trợ quan hệ công chúng thông qua 'PROJECT BrandLand JAPAN'.[155]
- 31 tháng 10, 'hội thảo Cool Japan Nagoya' được tổ chức tại Nagoya là hội thảo vùng thứ ba. Hội thảo phân tích mối quan hệ giữa Cool Japan và phát triển đô thị Nhật Bản, giới thiệu dự án 758, giới thiệu dự án 88 thánh địa anime, giới thiệu hội nghị thượng đỉnh cosplay thế giới.[156]
- 16 tháng 12, Văn phòng Nội các và thành phố Kobe tổ chức 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' lần đầu tại Hyōgo do 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Matsuyama Masaji chủ trì.[157][158]
- 2018
- 31 tháng 5, chính phủ Nhật Bản của đảng Dân chủ Tự do đề xuất thành lập một hội đồng đặc biệt chịu trách nhiệm xây dựng dự luật 'chính sách cơ bản' xúc tiến chiến lược Cool Japan.[159]
- 2 tháng 10, Nội các Abe lần 4 (cải tổ lần 1) ra mắt cùng ngày, Takuya Hirai được bổ nhiệm làm 'Bộ trưởng chiến lược Cool Japan' (với tư cách Bộ trưởng Nội các Đặc trách giống như người tiền nhiệm Matsuyama Masaji).
- 10 tháng 11, Văn phòng Nội các và thành phố Kitakyūshū tổ chức 'hội nghị Xúc tiến Cool Japan' lần đầu tiên tại Fukuoka; 'bộ trưởng chiến lược Cool Japan' Takuya Hirai cùng với thống đốc Fukuoka và thị trưởng thành phố Kitakyūshū thảo luận với các chuyên gia về chiến lược nhằm mở rộng quảng bá các thương hiệu Fukuoka ở nước ngoài, trong đó website đa ngôn ngữ Asian Beat được thành lập vào năm 2005 bởi Fukuoka và các công ty địa phương giúp tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa giới trẻ Nhật Bản và châu Á.[160][161]
- 2019
- 1 tháng 3, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp xuất bản báo cáo 'dự án cải thiện môi trường thương mại Cool Japan nội địa sửa đổi năm 2017'.[162]
- 8 tháng 3, Bộ trưởng chiến lược Cool Japan Takuya Hirai tổ chức một buổi họp báo và nói rằng Cool Japan được xúc tiến bằng cách tăng cường hợp tác giữa các bộ, tận dụng các quan điểm và kiến thức của người nước ngoài để quảng bá ẩm thực Nhật Bản, văn hóa Nhật Bản, anime ra nước ngoài.[163]
- 24 tháng 3, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp tổ chức 'tuần lễ thời trang Tokyo' tại trụ sở, mục đích hỗ trợ các nhà thiết kế Nhật Bản.[164]
- 2 tháng 6, ủy ban đặc biệt xúc tiến chiến dịch Cool Japan của đảng Dân chủ Tự do đề xuất tăng cường xuất khẩu cá Koi và bonsai, hy vọng được xuất hiện trong 'chính sách xương to' [Honebuto no hōshin] của chính phủ Nhật Bản vào tháng 6; Takuya Hirai đã đệ trình kỹ lưỡng với bộ trưởng Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ.[165]
- 6 tháng 6, một nhóm chuyên gia thảo luận để xem xét sửa đổi chiến lược Cool Japan tại trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ ở Marunouchi thuộc Tokyo, Takuya Hirai phát biểu 'Cool Japan không bán đồ hay tăng khách du lịch. Chúng tôi muốn quay lại những điều cơ bản để tăng số lượng người nước ngoài hâm mộ Nhật Bản và đánh giá lại chiến lược Cool Japan'.[166]
- 15 tháng 6, Takuya Hirai chủ trì 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' tại thành phố Ojiya thuộc Niigata nhằm trao đổi với thống đốc và các chuyên gia về giải pháp giúp phổ biến các điểm tham quan khác nhau trong khu vực.[167][168]
- 20 tháng 6, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp hợp tác với Viện nghiên cứu tương lai Haneda và Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) tiến hành hỗ trợ các sản phẩm Cool Japan (thủ công mỹ nghệ, nhu yếu phẩm hàng ngày, đồ gia dụng, mỹ phẩm) tại khu vực sân bay Haneda (còn gọi là sân bay quốc tế Tokyo) từ tháng 8 năm 2019 thông qua các công cụ tiếp thị số nhằm thu thập và phân tích dữ liệu.[169]
- 19 tháng 7, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp chính thức thông qua 5 dự án trong tổng số 22 dự án xét duyệt nhằm thúc đẩy chính sách Cool Japan địa phương quảng bá các tài nguyên vùng hấp dẫn sang thị trường nước ngoài và phát triển các kênh bán hàng ở nước ngoài: quảng bá bán hàng 'thiết kế Wajima' ở nước ngoài (Ishikawa), du lịch địa phương sử dụng các cosplayer nước ngoài (Kyōto), sản xuất nội dung và lập kế hoạch cho chuyến tham quan Kinosaki Onsen cao cấp (Hyōgo), mỹ phẩm sử dụng các nguồn tài nguyên chưa sử dụng (Saga), xây dựng thương hiệu "công nghiệp du lịch thủ công" Hasami (Nagasaki).[170][171]
- 26 tháng 7, trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ thuộc Văn phòng Nội các thảo luận chống vi phạm bản quyền trên internet, dự thảo đánh giá 'chiến lược Cool Japan mới' của chính phủ Nhật Bản, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp sáng tạo.[172] Dự thảo chiến lược Cool Japan thành lập một nhóm tư nhân có ảnh hưởng cốt lõi trong khu vực tư nhân nhằm đẩy nhanh chuyển đổi từ 'chính phủ lãnh đạo' sang sáng kiến khu vực tư nhân; xây dựng một mạng lưới KOL, các chuyên gia nước ngoài, chính quyền địa phương, doanh nghiệp địa phương để xúc tiến tài nguyên Cool Japan ra nước ngoài.[173][174] Chính phủ Nhật Bản nói rằng chiến dịch Cool Japan bị phủ bóng bởi vì chưa đủ sự hợp tác giữa các bộ và không tận dụng được truyền thông xã hội.[174]
- 3 tháng 9, thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzō quyết định chiến lược 'Cool Japan mới' tại trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ với việc thành lập một tổ chức cốt lõi khu vực tư nhân. Mục tiêu thúc đẩy phân tích và chia sẻ nhu cầu ở nước ngoài thông qua sự hợp tác giữa người nước ngoài, nhà đầu tư, doanh nghiệp địa phương. Thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzō xem xét nởi lỏng điều kiện cư trú cho người nước ngoài tham gia Cool Japan, ra mắt 'hội nghị chiến lược Cool Japan' do Bộ trưởng chiến lược Cool Japan chủ trì và thứ trưởng (gồm Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) và Bộ Ngoại giao (MOFA)), đồng thời xóa bỏ 'hội nghị hợp tác/liên lạc bộ Cool Japan' do Chánh Văn phòng Nội các quản lý.[175]
- 9 tháng 9, Văn phòng Nội các bổ nhiệm diễn viên lồng tiếng Hirano Aya làm dại sứ Cool Japan với mục tiêu quảng bá văn hóa thú vị của Nhật Bản ra thế giới, buổi bổ nhiệm có sự tham gia của Bộ trưởng chiến lược Cool Japan Takuya Hirai.[176]
- 11 tháng 9, Nội các Abe lần 4 (cải tổ lần 2) ra mắt cùng ngày, Takemoto Naokazu được bổ nhiệm làm 'Bộ trưởng chiến lược Cool Japan'.
- 12 tháng 9, Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) và Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp tuyển chọn 100 công ty Nhật Bản 'thế hệ tiếp nối' để xây dựng chương trình Takumi Next mở rộng các kênh bán các sản phẩm Cool Japan (gồm sản phẩm truyền thống, hàng đân dụng) ở nước ngoài trong tương lai.[177]
- 15 tháng 10, Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) và Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp mời 25 đại diện sắc đẹp đến từ 25 quốc gia thuộc Hoa hậu Quốc tế 2019 tham gia dự án khám phá sự hấp dẫn của các sản phẩm Cool Japan dưới góc nhìn của phụ nữ; mục tiêu xuất khẩu các sản phẩm địa phương Nhật Bản và giới thiệu các điểm du lịch Nhật Bản đến thế giới.[178]
- 8 tháng 11, Văn phòng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Shikoku và Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) xúc tiến chương trình mở rộng sản phẩm sang thị trường nước ngoài tại Kagawa, Ehime.[179]
- 28 tháng 11, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp và Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) chọn 260 sản phẩm từ 101 công ty Nhật Bản cho chương trình Takumi Next nhằm mở rộng các kênh bán hàng Cool Japan ở thị trường nước ngoài.[180]
- 2020
- 10 tháng 1, chính phủ Nhật Bản lần đầu tiên đề nghị hỗ trợ cho một bộ phim Holywood, đây là một phần của sáng kiến khuyến khích các nhà sản xuất phim nước ngoài lựa chọn các địa điểm tại Nhật Bản làm bối cảnh phim.[181]
- 10 tháng 2, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp hợp tác với Viện nghiên cứu tương lai Haneda và Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) tiến hành chưng trình Takumi Next lần hai, hỗ trợ các sản phẩm Cool Japan thông qua các công cụ tiếp thị số nhằm thu thập và phân tích dữ liệu tại khu vực sân bay Haneda (còn gọi là sân bay quốc tế Tokyo).[182]
Phòng công nghiệp sáng tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Chính phủ Nhật Bản đã xác định công nghiệp văn hóa giữ vai trò là một trong năm lĩnh vực tăng trưởng tiềm năng.[183] Tháng 6 năm 2010, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp thành lập một phòng Công nghiệp Sáng tạo nhằm thúc đẩy công nghiệp văn hóa và sáng tạo như một khu vực chiến lược "theo khái niệm thuật ngữ dài hạn, đơn giản của Cool Japan, phối hợp các chức năng khác nhau của chính phủ Nhật Bản và hợp tác với khu vực tư nhân".[184] Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp tuyến bố rằng văn hóa đại chúng Nhật Bản là một trong những yếu tố quan trọng của Cool Japan; văn hóa đại chúng bao gồm thần tượng, anime và người sành ăn hạng B (B級グルメ).[185]
Phòng Công nghiệp Sáng tạo miêu tả sứ mệnh của Cool Japan đóng vai trò "tạo nhãn hiệu sản phẩm Nhật Bản với sự độc đáo của văn hóa Nhật Bản".[186][187] Tính đến năm 2011, chính phủ Nhật Bản tài trợ Cool Japan một gói ngân sách hơn 19 tỷ JP¥ (237 triệu US$).[187] Trong năm tài chính 2008, chi tiêu chính phủ vào các hoạt động văn hóa của Hàn Quốc đạt 119,6 tỷ JP¥, Trung Quốc đạt 447,5 tỷ JP¥, Nhật Bản đạt 101,8 tỷ JP¥ tương ứng với 0,79%, 0,51%, 0,12% trong chi tiêu chính phủ của từng quốc gia.[186] Quỹ Cool Japan ra mắt năm 2013,[188] chính phủ Nhật Bản cam kết tài trợ quỹ Cool Japan 50 tỷ JP¥ (500 triệu US$) trong hơn 20 năm, với mục tiêu đạt 60 tỷ JP¥ (600 triệu US$) thông qua các quan hệ đối tác nhà đầu tư tư nhân.[189] Quỹ Cool Japan có ba mục tiêu lớn: đầu tiên là xúc tiến quảng bá hàng hóa địa phương và văn hóa Nhật Bản trên quy mô toàn cầu cũng như thu hút du lịch đến Nhật Bản, thứ hai là trung tâm thương mại Nhật Bản (tọa lạc tại các trung tâm thành phố lớn thu hút khách hàng người nước ngoài), thứ ba là kênh Nhật Bản (đài truyền hình nước ngoài phát sóng nhiều nội dung liên quan đến Nhật Bản).[190][191] Theo giám đốc điều hành Kato Eiji, quỹ Cool Japan là một công ty đầu tư trong bốn lĩnh vực: nội dung truyền thông, lối sống thời trang, ẩm thực, dịch vụ; quỹ hoạt động với năm chiến lược: tập trung vào đầu tư dòng tiền, tập trung vào các đối tác địa phương, theo đuổi sức mạnh tổng hợp toàn cầu, đa dạng hóa các phương pháp, tối ưu hóa danh mục đầu tư đầu tư.[192] Quỹ Cool Japan thua lỗ 4,5 tỷ JP¥ trong tổng số 35 tỷ JP¥ đầu tư cho 17 dự án tính đến tháng 3 năm 2017,[193][194] quỹ Cool Japan lỗ 4,4 tỷ JP¥ trong tổng số vốn 52,9 tỷ JP¥ đầu tư cho 25 dự án tính đến năm 2018.[188] Nihon Keizai Shimbun cho biết quỹ Cool Japan trong vòng 5 năm "đã chịu lỗ trước thuế tổng cộng 10 tỷ JP¥ (88,9 triệu US$)" và 18 dự án không thu được lợi nhuận.[195][196] Tháng 6 năm 2018, quỹ Cool Japan được quản lý bởi cựu tổng giám đốc điều hành Sony Music Entertainment Japan Kitagawa Naoki.[197] Quỹ Cool Japan xúc tiến 29 dự án với quy mô 62 tỷ JP¥ tính đến tháng 7 năm 2018 (trong đó 58,6 tỷ JP¥ đến từ nguồn vốn công),[193] tăng thành 31 dự án với quy mô 66,4 tỷ JP¥ vào tháng 3 năm 2019.[198] Tính đến tháng 7 năm 2019, quỹ Cool Japan xúc tiến đầu tư 35 dự án với 87% nguồn vốn từ chính phủ Nhật Bản, quỹ đầu tư vào hình thức doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) và doanh nghiệp với khách hàng (B2C).[199]
Năm | Xúc tiến đầu tư |
---|---|
2011 |
|
2013 | |
2014 |
|
2015 |
|
2016 |
|
2017 |
|
2018 |
|
2019 |
|
Đón nhận
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2012, giám đốc điều hành A.T. Kearney Japan là Umezawa Takaaki ủng hộ chiến lược Cool Japan và cho rằng 'Nhật Bản nói chung mạnh về lĩnh vực sáng tạo nhưng yếu trong một số lĩnh vực then chốt: khả năng đánh giá thị trường nước ngoài, các doanh nhân có khả năng dẫn dắt sự phát triển thị trường nước ngoài, tiền rủi ro cần thiết để hỗ trợ các hoạt động này'.[237] Năm 2013, nhà sản xuất của AKB48 là Akimoto Yasushi nhận xét rằng 'để ngăn chặn chiến dịch Cool Japan kết thúc trong một hình ảnh rỗng, điều quan trọng là tạo ra các ví dụ thành công'.[238] Giám đốc điều hành quỹ Cool Japan năm 2013 là Ota Nobuyuki phát biểu rằng 'các nhà sản xuất địa phương đang thu hẹp và nhiều người trẻ rời đến các thành phố lớn hơn. Một khi các thế hệ cũ chết đi, sẽ không có ai đảm nhận điều đó'; giám đốc điều hành Brightrust PE Japan Co là Takeuchi Joji cho rằng 'vốn mạo hiểm từ các nhà đầu tư tư nhân là rất nhỏ và không có gì hơn một sự hỗ trợ của họ dành cho sáng kiến của chính phủ'.[239] Giáo sư Hiroyuki Kishi tại đại học Keio chỉ ra hai vấn đề ảnh hưởng đến Cool Japan là chính phủ không giới hạn thể loại văn hóa Nhật Bản chủ chốt và ngân sách quốc gia để quảng bá có thể là một sự lãng phí tiền thuế, Hiroyuki Kishi cho rằng K-pop thành công vì thị trường nội địa nhỏ đã thúc đẩy các công ty tư nhân Hàn Quốc sẵn sàng chấp nhận rủi ro và đầu tư vào thị trường toàn cầu trong khi các công ty phụ trách văn hóa Nhật Bản lại tối đa hóa lợi nhuận trong thị trường nội địa quy mô lớn.[240] Masakazu Honda của Toyo Keizai thất vọng khi phim truyền hình Hàn Quốc thành công tại Việt Nam nhờ trợ giá từ chính phủ Hàn Quốc với mức bán gần như miễn phí và số tập một bộ phim truyền hình Hàn Quốc nhiều hơn so với khung cố định 12 tập của phim truyền hình Nhật Bản; Masakazu Honda chỉ ra việc quảng bá phim truyền hình Hàn Quốc đang được tiến hành tại các quốc gia châu Á nhờ 70% lợi nhuận phí quảng cáo cao tại Nhật Bản.[241] Trung Rwo trên Zing cho rằng phim truyền hình Hàn Quốc được trợ giá từ chính phủ Hàn Quốc so với phí bản quyền khá đắt của phim truyền hình Nhật Bản, thị trường nội địa Nhật Bản rộng lớn và tính khép kín của người Nhật nên chưa tạo ảnh hưởng lớn tại Việt Nam dù đã từng vang danh trước đây với Oshin.[242] Matsui Takeshi tại đại học Hitotsubashi cho rằng mục tiêu các chính sách Cool Japan của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp là tăng trưởng thị trường toàn cầu ngành công nghiệp nội dung Nhật Bản và dựa trên lý luận kinh điển của chính sách công nghiệp, điều thú vị là Cool Japan sử dụng lý luận quyền lực mềm và thương hiệu quốc gia để khẳng định tầm quan trọng của sự phát triển công nghiệp nội dung đối với một quốc gia được cộng hưởng ngoại giao văn hóa.[4] CNBC cho rằng ban đầu Cool Japan được thành lập để quảng bá anime và manga nhưng chiến dịch hiện tại đã biến đổi thành một thứ lớn hơn rất nhiều.[243] Trong chuyến thăm của thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzō tại Nhà Trắng vào ngày 29 tháng 4 năm 2015, tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama phát biểu 'hôm nay là một cơ hội hội để người Mỹ, đặc biệt là giới trẻ của chúng tôi nói lời cảm ơn cho tất cả những thứ chúng tôi yêu thích từ Nhật Bản như karate và karaoke, manga và anime, tất nhiên cả emoji'.[244] Nghiên cứu của Đại học Quốc gia Singapore năm 2018 cho rằng chính phủ Nhật Bản không tận dụng tối đa các nền tảng truyền thông xã hội để quảng bá Cool Japan đến công chúng (Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp không có tài khoản Twitter để cập nhật tiến độ của dự án, facebook 'Cool Japan' của NHK chủ yếu đề cập đến trải nghiệm văn hóa của khách du lịch nước ngoài tại Nhật Bản nhưng sự liên kết với dự án quốc gia Cool Japan còn mơ hồ).[82] Motoharu Kano của Shūkan Gendai cho rằng 'Cool Japan của chính phủ tuy luôn bị chỉ trích không thú vị nhưng cần tiếp tục mở rộng kinh doanh và hết sức cẩn thận để không trở thành 'Angry Japan''.[209] Patrick St.Michel của The Atlantic cho rằng Cool Japan không nỗ lực làm nổi bật các siêu sao Nhật Bản (đặc biệt trong lĩnh vực âm nhạc Nhật Bản), Kyary Pamyu Pamyu và Babymetal thành công vang dội trên YouTube nhưng không có sự hỗ trợ từ Cool Japan.[245] Ronald Taylor của The Japan Times cho rằng Cool Japan đã đáp ứng với chia sẻ của các nhà phê bình mà Murakami Haruki là một ví dụ, Cool Japan có xu hướng thiên vị anime và văn hóa truyền thống hơn so với âm nhạc và điện ảnh Nhật Bản (sự kiện 'Japan Nite' không được Cool Japan hỗ trợ); nhạc sĩ Seiho phát biểu: 'chính phủ và các công ty nghĩ rằng vì AKB48 và Kyary Pamyu Pamyu có ảnh hưởng lớn tại Nhật Bản nên sẽ có tiềm năng lớn ở nước ngoài, nhưng họ đã sai. Họ nên im lặng khi liên quan đến văn hóa, nhưng hãy hỗ trợ ngân sách cho các nghệ sĩ để truyền bá văn hóa Nhật Bản ra nước ngoài một cách tự nhiên'.[246] Alex Watson của Wall Street International Magazine cho rằng Cool Japan của chính phủ Nhật Bản đã bỏ qua kho tàng văn hóa truyền thống như các bậc danh sĩ (Bạch Ẩn Huệ Hạc, Itō Jakuchū, Utagawa Kunisada) hoặc nhà văn như Abe Kōbō hoặc các di sản (Sanjūsangen-dō ở Kyōto, đền Itsukushima ở Hiroshima) hoặc các nhà làm phim/ nghệ sĩ nổi bật (Atsuko Suka, Miyazawa Akio, Makoto Aida, Son Shion) bởi vì thiếu an tâm và độ chín muồi.[11] Makino Yoshiji của Kenja no Sentaku cho rằng quỹ Cool Japan hoạt động trong 20 năm với ngân sách khổng lồ 100 tỷ JP¥ nên được một tổ chức thứ ba giám sát để tránh bị các công ty quảng cáo lớn đánh cắp, chỉ ra sự chậm chạp của Nhật Bản khi tái phát sóng bộ phim Oshin tại Việt Nam 'không thể đánh bại cuộc tấn công thị trường của Hàn Quốc' với sức hút K-pop dành cho những phụ nữ trẻ người Việt; Makino Yoshiji gợi ý Cool Japan nên phân tích nhu cầu địa phương của các quốc gia với một tác động mạnh mẽ 'đó là Nhật Bản thực sự' và sử dụng như một chất xúc tác để tấn công.[191] Hirotaka Watanabe trên Diễn đàn chính sách ngoại giao Nhật Bản thuộc Bộ Ngoại giao cho rằng một vấn đề tương lai trong việc thành lập thương hiệu quốc gia của Nhật Bản là làm rõ khái niệm, một mục tiêu xác định, tạo ra một câu chuyện (bối cảnh), đưa ra một vai trò rõ ràng.[110] Năm 2017, giáo sư Keiko Sakagami tại đại học Waseda cho rằng người Nhật bị Cool Japan ảnh hưởng mạnh mẽ nhiều hơn so với người nước ngoài, nếu người Nhật với tư cách là người khởi tạo chỉ nghĩ đến sự tán thưởng dễ dãi của người nước ngoài và dễ dàng đánh mất bản chất của nó bởi 'ảo ảnh' thì sẽ không thể hy vọng về sự phát triển trong tương lai.[247] Mark McLelland tại đại học Wollongong chỉ ra sự lan truyền Cool Japan khác biệt so với thành công trước đó của ngành sản xuất chế tạo Nhật Bản vì 'ngoài việc hàng hóa Cool Japan được cấp phép và phân phối chính thức thì một số lượng lớn hơn đã được lưu hành thông qua các mạng phân phối vi phạm bản quyền do người hâm mộ phân phối trên internet'.[248] Nissim Otmazgin giải thích khả năng công nghiệp văn hóa Nhật Bản sản xuất chế tạo hàng hóa văn hóa đại chúng và tiếp thị trên quy mô lớn nhờ mối quan hệ hàng hóa hóa liên tục và tích cực giữa các ngành công nghiệp văn hóa với khán giả.[249] Năm 2019, Noah Smith của The Economic Times gợi ý chính phủ Nhật Bản nên sử dụng các ưu đãi tài chính để khuyến khích các công ty sản xuất giải trí xuất khẩu sản phẩm của họ, đồng thời trao một số lượng lớn các bản hợp đồng cho những công ty tiếp thị và quảng cáo nhỏ hơn thay vì các công ty lớn (Dentsu, Hakuhodo), hướng các nguồn lực vào những thị trường mà Nhật Bản đã thành công trong việc thâm nhập thị trường nước ngoài.[14] Eyal Ben-Ari và Nissim Otmazgin chỉ ra rằng các chính sách của chính phủ Nhật Bản đang khuyến khích xuất khẩu văn hóa đại chúng Nhật Bản bằng cách hỗ trợ các công ty lớn nhưng 'các công ty nhỏ và các công ty khởi nghiệp mạo hiểm mới chính là trái tim sản xuất văn hóa đại chúng'.[250] Toutiao khen ngợi Cool Japan tạo nên quyền lực mềm khi ''người nước ngoài quan tâm đến các thương hiệu Nhật Bản (như anime, phim truyền hình Nhật Bản, sushi, takoyaki,...), vận hành một nền văn hóa thú vị không thể bị bắt chước từ góc độ quan điểm sở hữu trí tuệ (sản phẩm, triết lý, dịch vụ đều độc nhất), truyền tải nét đẹp quyến rũ Nhật Bản tới thế hệ trẻ nước ngoài mà chủ yếu là vị thành niên (thị trường tiêu dùng của tương lai); Toutiao hy vọng Trung Quốc có thể tích cực học hỏi từ Nhật Bản để xuất khẩu văn hóa và nâng cao ảnh hưởng quốc tế.[251][252]
Chỉ trích
[sửa | sửa mã nguồn]Một bài xã luận trên Yomiuri Shimbun lập luận rằng chính phủ Nhật Bản đã không hành động đủ nỗ lực để thúc đẩy lãi thương mại của quốc gia trong lĩnh vực này, cho phép Hàn Quốc nổi lên như một đối thủ cạnh tranh. Bài xã luận đã nhấn mạnh sự thiếu hiệu quả về cơ cấu khi Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp quảng bá Cool Japan, Bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm trao đổi văn hóa, Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản phụ trách về ẩm thực Nhật Bản.[253][254][255] Giảng viên Roland Kelts cũng cho rằng một thất bại trong việc phân biệt đầy đủ, nhãn hiệu, thu hút khán giả và thị trường nước ngoài có thể dẫn đến khả năng Cool Japan đã 'kết thúc'.[256][257] Năm 2011, Laura Miller đã chỉ trích chiến dịch Cool Japan vì khai thác, bóp méo ngôn ngữ và thời trang tiểu văn hóa giới trẻ.[258] Năm 2012, Chiang Chuck của Vancouver Sun cho rằng chính phủ Nhật Bản đã không tạo đủ những ảnh hưởng tối đa của văn hóa đại chúng Nhật Bản ở đỉnh cao, sự trỗi dậy của Hàn Quốc như một người chơi văn hóa trong thập niên 2000 tượng trưng cho một cơ hội đã mất và Cool Japan được hỗ trợ bởi bộ máy quan liêu của chính phủ Nhật Bản.[259] Họa sĩ Murakami Takashi chỉ trích "tôi không thể hiểu tại sao các nghệ sĩ lại tham gia vào những mánh khóe của các công ty quảng cáo - những kẻ chỉ đơn giản là đang cố kiếm lợi nhuận với 'Cool Japan'".[260] Nissim Otmazgin cho rằng khi thực hiện Cool Japan, các cơ quan và các bộ thuộc chính phủ Nhật Bản có sự canh tranh thường xuyên nguồn vốn, trách nhiệm chồng chéo, thiếu phối hợp, đấu tranh về uy tín.[261] Năm 2013, Nancy Snow đã gọi Cool Japan như một hình thức tóm tắt lại văn hóa được chính phủ Nhật Bản tài trợ là tổng tuyên truyền quốc gia.[262] Ca sĩ kiêm sáng tác nhạc Gackt chỉ trích chính phủ Nhật Bản trong năm 2015 bởi vì đã lập một ngân sách khổng lồ nhưng "không biết nên đưa số tiền đó đi đâu. Không có gì quá phóng đại khi nói rằng ngân sách đã rơi vào một vòng xoáy đi xuống khi đồng tiền thuế lãng phí đang chảy vào các công ty ít được biết đến", việc thiếu hụt sự hỗ trợ đang là nguyên nhân khiến Nhật Bản "tụt hậu so với các nước láng giềng châu Á về xuất khẩu văn hóa".[188][263] Năm 2016, Benjamin Boas chỉ ra rằng những nỗ lực được gắn nhãn Cool Japan thường được quảng bá mà không có sự tham gia của người nước ngoài, bỏ qua quan điểm của những người nước ngoài mà Nhật Bản đang cố gắng nhắm mục tiêu.[264] Năm 2015, chính khách Matsuda Kota nhận xét 'Cool Japan nên hỗ trợ các doanh nghiệp sáng tạo mới nhưng thay vào đó Cool Japan lại được kiểm soát bởi các công ty lớn' và những thứ người Nhật cho là thú vị nhưng có thể rất khác với suy nghĩ người nước ngoài (sushi, tempura, sukiyaki được người Nhật xem là tiêu chuẩn vàng của ẩm thực Nhật Bản nhưng thực tế ramen giảm giá lại bùng nổ hiện tại).[243] Laurence Henry nói rằng xuất khẩu văn hóa đại chúng Nhật Bản thấp (chiếm 5% tổng doanh số của công nghiệp sáng tạo Nhật Bản năm 2012, công nghiệp nội dung của Nhật Bản chiếm 0,5% tổng sản lượng thế giới năm 2012) bởi vì thị trường nội địa phát triển mạnh mẽ và không tìm kiếm tăng trưởng ở nước ngoài, chính sách của chính phủ Nhật Bản đã hạn chế các cuộc cạnh tranh và bảo vệ lợi ích một số công ty sản xuất lớn ở Nhật Bản.[265] Năm 2016, họa sĩ Murakami Takashi nhận xét Cool Japan là 'ngu ngốc, siêu ngu ngốc. Cái tên này rất hay, nhưng một số tiền khổng lồ chỉ dành cho quảng cáo, không có gì thực sự xảy ra, quá trình thực sự và nỗ lực sáng tạo văn hóa cần có thời gian, đó là một quá trình không bao giờ kết thúc'.[266]
Năm 2017, một giám đốc điều hành cấp cao và một số nhân viên nam cấp cao của quỹ Cool Japan đã bị cáo buộc quấy rối tình dục các nhân viên nữ của quỹ, các nhân viên đã thành lập một công đoàn để đấu tranh chống lại quấy rối tình dục.[267] Cùng năm 2017, nhà báo Saito Yuta của Nihon Keizai Shimbun chỉ trích tham vọng của quỹ vì "thiếu chiến lược và kỷ luật khiến gia tăng các dự án không có lãi", có thể gây xung đột lợi ích đối với các nhà quản lý điều hành.[196] Năm 2018, Japan Today báo cáo rằng còn quá sớm để coi quỹ Cool Japan là "không đủ năng lực hoặc tham nhũng", nhưng ít nhất tính đến hiện tại thì quỹ Cool Japan "hoạt động kém hiệu quả".[188] Năm 2018, Furuya Tsunehira của Newsweek chỉ trích những người thực hiện Cool Japan đã tạo ra một thực tế tệ như vậy do không hiểu gì về văn hóa Nhật Bản và hoàn toàn không hiểu nền kinh tế thị trường.[268] Takashi Arimori của JBpress phê phán rằng "Hàn Quốc có thị trường nội địa nhỏ, buộc phải hướng ngoại. K-pop là một ví dụ thành công và điện ảnh Hàn Quốc đang tiếp bước. Chính sách văn hóa Cool Japan của nội các Abe đã bị Ký sinh trùng đánh gục".[269] Đạo diễn Kore-eda Hirokazu chỉ trích Cool Japan vì những sáng kiến độc đoán và không hiệu quả.[270]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Taiwan Excellence - một chiến dịch tương tự của Đài Loan
- Cool Britannia
- Cool Biz
- Làn sóng Hàn Quốc
- Làn sóng Đài Loan
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Yano, Christine R (19 tháng 8 năm 2009). “Wink on Pink: Interpreting Japanese Cute as It Grabs the Global Headlines” [Cái nháy mắt màu hồng: Phiên dịch dễ thương Nhật Bản như nắm lấy tiêu đề toàn cầu]. The Journal of Asian Studies (bằng tiếng Anh). tr. 681–688. doi:10.1017/S0021911809990015. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011. Đã định rõ hơn một tham số trong
|at=
và|pages=
(trợ giúp) - ^ Nagata, Kazuaki (15 tháng 5 năm 2012). “Exporting culture via 'Cool Japan'” [Xuất khẩu văn hóa thông qua 'Cool Japan']. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
- ^ Iwabuchi, Koichi (8 tháng 8 năm 2015). “Pop-culture diplomacy in Japan: soft power, nation branding and the question of 'international cultural exchange” [Chính sách văn hóa đại chúng tại Nhật Bản: Quyền lực mềm, thương hiệu quốc gia và câu hỏi về 'trao đổi văn hóa quốc tế']. International Journal of Cultural Policy (bằng tiếng Anh). tr. 419–432. doi:10.1080/10286632.2015.1042469. ISSN 1028-6632. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong
|at=
và|pages=
(trợ giúp) - ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t Matsui, Takeshi (1 tháng 10 năm 2014). “Nation Branding Through Stigmatized Popular Culture: The "Cool Japan" Craze Among Central Ministries In Japan” [Thương hiệu quốc gia qua văn hóa đại chúng bị kỳ thị: Cơn sốt Cool Japan giữa các bộ trung ương ở Nhật Bản] (PDF). Đại học Hitotsubashi. Vol. 48, no. 1 (Oct. 2014) (bằng tiếng Anh). doi:10.15057/26980. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2014. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
[...] But the collapse of its bubble economy at the beginning of the 1990s crushed Japanese self-confidence completely. In addition to the agony of the long recession, harsh competition with Korea in steel, automotive and electronics industries, the USʼs strong leadership in the "IT revolution" from the mid-1990s, and Chinaʼs rapid economic growth in the 21st century also enhanced the depressed atmosphere of the "Lost Decade" after the bitter defeat in economic war [...]
line feed character trong|quote=
tại ký tự số 92 (trợ giúp) - ^ McGray, Douglas (2001). “Japan's Gross National Cool” [Tổng thú vị quốc gia của Nhật Bản]. Đại học Toronto (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2010.
Douglas McGray is a contributing writer of FOREIGN POLICY magazine. He spent the spring of 2001 in Japan as a media fellow of the Japan Society
- ^ a b McGray, Douglas (1 tháng 5 năm 2002). “Japan's Gross National Cool” [Tổng thú vị quốc gia của Nhật Bản]. Foreign Policy (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2005.
- ^ a b Otani, Shunsuke (2003). “我が国のパブリック・ディプロマシーの変遷と今後の課題” [Chuyển tiếp của ngoại giao công chúng tại Nhật Bản và các vấn đề tương lai] (PDF). National Diet Library Digital Collections (bằng tiếng Nhật). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2019.
- ^ Allison, Anne (5 tháng 10 năm 2007). “J-brand: What image of youth is getting sold in Japan's "gross national cool"?” [Thương hiệu Nhật Bản: Hình ảnh nào của giới trẻ đang được bán trong 'tổng thú vị quốc gia' của Nhật Bản] (PDF). Đại học California tại Berkeley (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2007. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ Hiromi, Yamaguchi (26 tháng 10 năm 2008). “フランス人も憧れる「マンガ大国」、誇るべきはその奥行きの深さ” ['Sức mạnh manga' mà người Pháp ngưỡng mộ, chiều sâu mà bạn nên tự hào]. PRESIDENT Online (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012.
- ^ Osamu, Inoue (16 tháng 7 năm 2014). “「クールジャパン」と言うべきか否か” [Có nên nói 'Cool Japan']. Nikkei Business Online (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2014.
- ^ a b Watson, Alex (28 tháng 11 năm 2016). “Is Japan Cool?” [Nhật Bản có thú vị không?]. Wall Street International Magazine (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2016.
- ^ Bestor, Theodore C (6 tháng 2 năm 2006). “Japan's Gross National Cool” [Tổng thú vị quốc gia của Nhật Bản] (PDF). Đại học Harvard (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2006. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ Azuma, Hiroki (5 tháng 4 năm 2012). “コラム Vol.1 クール・ジャパンはクールではない 東 浩紀” [Cột Vol.1 Cool Japan không thú vị, Azuma Hiroki]. Japan Media Arts Plaza (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2012.
- ^ a b Smith, Noah (1 tháng 7 năm 2019). “Japan is cool but has no clue about selling itself” [Nhật Bản thú vị nhưng chưa có ý tưởng để bán hàng]. The Economic Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2019.
[...] The lure of its large domestic market is too strong, causing many companies to look inward for safe, reliable revenues. But with the population shrinking and aging, and the rest of the world growing, that strategy makes less sense every day. Japanese companies must look outward [...]
- ^ “クールジャパン政策について” [Về chính sách Cool Japan] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 8 năm 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
- ^ a b c d e “クール・ジャパンの海外展開支援 ― 株式会社海外需要開拓支援機構法案 ―” [Hỗ trợ phát triển ở nước ngoài của Cool Japan - Dự luật cơ chế hỗ trợ phát triển nhu cầu ở nước ngoài -] (PDF). Tham Nghị viện. 340号[平成25年5月10日], 平成25年発行分 [Số 340, ngày 10 tháng 5 năm 2013, Các vấn đề năm 2013] (bằng tiếng Nhật). 立法と調査 [Pháp luật và Điều tra]. 10 tháng 5 năm 2013. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2019.
- ^ a b “「新成長戦略」について 平成22年6月18日 閣議決定” [Chiến lược tăng trưởng mới ~ Kịch bản của hồi sinh 'Nguyên khí Nhật Bản' (18 tháng 6 năm 2010)] (PDF). Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 4 năm 2019. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2010. Tóm lược dễ hiểu.
- ^ “クールジャパン政策について” [Về chính sách Cool Japan] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 9 năm 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2016.
- ^ a b “第4節 我が国のサービス収支動向” [Mục 4 Xu hướng cán cân dịch vụ tại Nhật Bản]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2015.
- ^ “旅行収支53年ぶり黒字 訪日客増を反映” [Thặng dư du lịch lần đầu tiên sau 53 năm phản ánh sự gia tăng của du khách đến Nhật Bản]. Mainichi Shimbun (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2012.
- ^ Talbot, Margaret (15 tháng 12 năm 2002). “The Year in Ideas; Pokémon Hegemon” [Năm của ý tưởng: Bá quyền Pókemon]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2002. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2002.
- ^ “Japan counts on cool culture” [Nhật Bản quan tâm đến văn hóa thú vị]. BBC (bằng tiếng Anh). 13 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2004.
- ^ Faiola, Anthony (27 tháng 12 năm 2003). “Japan's Empire of Cool” [Đế chế thú vị của Nhật Bản]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2003.
- ^ Frederick, Jim (ngày 11 tháng 8 năm 2003). “What's Right with Japan” [Điều gì đúng đắn với Nhật Bản]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Press Conference 27 September 2005” [Họp báo 27 tháng 9 năm 2005]. Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Anh). 27 tháng 9 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2005.
- ^ “'Cool Japan' Goes Global” ['Cool Japan' vươn ra toàn cầu] (PDF). Chính phủ Nhật Bản (bằng tiếng Anh). 2009. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ “Cool Japan Research Project” [Dự án nghiên cứu Cool Japan]. Viện Công nghệ Massachusetts (bằng tiếng Anh). 4 tháng 1 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ Corbyn, Zoe (5 tháng 10 năm 2007). “'Cool Japan' suffers from cruel cuts” ['Cool Japan' khổ sở từ những vết cắt tàn nhẫn]. Times Higher Education (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ Miller, Laura (2011). “Taking girls seriously in 'Cool Japan' ideology” [Những cô gái quyễn rũ thực sự trong ý thức hệ Cool Japan] (PDF). Đại học Quốc tế Florida. Volume XV (2011) (bằng tiếng Anh). Journal Archive, Japan Studies Review. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2019. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ Otmazgin, Nissim (2013). “Regionalizing Culture: The Political Economy of Japanese Popular Culture in Asia” [Văn hóa khu vực hóa: Nền kinh tế chính trị của văn hóa đại chúng Nhật Bản tại châu Á] (bằng tiếng Anh). University of Hawaiʻi Press. tr. 72. ISBN 978-0-8248-3694-8.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ “我 が 国 の 文 化 政 策 平成26年度” [Chính sách văn hóa quốc gia 2014] (PDF). Cục Văn hóa (bằng tiếng Nhật). 2014. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2019.
- ^ Otmazgin, Nissim Kadosh (21 tháng 6 năm 2007). “Contesting soft power: Japanese popular culture in East and Southeast Asia” [Kiểm chứng quyền lực mềm: Văn hóa đại chúng Nhật Bản tại Đông Á và Đông Nam Á]. International Relations of the Asia-Pacific. Volume 8, Issue 1 (bằng tiếng Anh). tr. 73–101. doi:10.1093/irap/lcm009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2007.
- ^ Sugiura, Tsutomu (2008). “Japan's Creative Industries: Culture as a Source of Soft Power in the Industrial Sector” [Công nghiệp sáng tạo của Nhật Bản: Văn hóa như một nguồn cội của quyền lực mềm trong khu vực công nghiệp]. Soft Power Superpowers: Cultural and National Assets of Japan and the United States [Siêu cường quốc quyền lực mềm: Văn hóa và tài sản quốc gia của Nhật Bản và Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). M. E. Sharpe. tr. 128–153. doi:10.1111/j.1943-0787.2009.01143.x. ISBN 9780765622488.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ Sugiura, Tsutomu. “Japan's Creative Industries: Culture as a Source of Soft Power in the Industrial Sector” [Công nghiệp sáng tạo của Nhật Bản: Văn hóa như một nguồn cội của quyền lực mềm trong khu vực công nghiệp]. Soft Power Superpowers: Cultural and National Assets of Japan and the United States [Siêu cường quốc quyền lực mềm: Văn hóa và tài sản quốc gia của Nhật Bản và Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). M. E. Sharpe. tr. 140–201. doi:10.1111/j.1943-0787.2009.01143.x. ISBN 9780765622488.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ “海外の日本語教育の現状-2012年度 日本語教育機関調査より” [Điều kiện hiện tại của giáo dục tiếng Nhật ở nước ngoài: Báo cáo về các tổ chức giáo dục tiếng Nhật năm tài chính 2012]. Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). Kuroshio Shuppan. 2013. ISBN 978-4874246085.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ Otmazgin, Nissim (2013). “Regionalizing Culture: The Political Economy of Japanese Popular Culture in Asia” [Văn hóa khu vực hóa: Nền kinh tế chính trị của văn hóa đại chúng Nhật Bản tại châu Á] (bằng tiếng Anh). University of Hawaiʻi Press. tr. 120. ISBN 978-0-8248-3694-8.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ Garvizu, Nicolas (14 tháng 2 năm 2017). “Cool Japan: the relationships between the state and the cultural industries” [Cool Japan: Mối quan hệ giữa chính phủ và các ngành công nghiệp văn hóa]. White Rose University Consortium (bằng tiếng Anh). Đại học Sheffield. tr. 198. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018. Tóm lược dễ hiểu.
- ^ a b c Choo, KuKhee (2012). “Nationalizing 'Cool': Japan's Global Promotion of the Content Industry” [Quốc hữu hóa 'thú vị': Xúc tiến toàn cầu của Nhật Bản về công nghiệp nội dung]. Popular Culture and the State in East and Southeast Asia [Văn hóa đại chúng và chính phủ tại Đông Á và Đông Nam Á] (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 85–105. ISBN 978-1138017108.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ Jozuka, Emiko (29 tháng 7 năm 2019). “Japanese anime: From 'Disney of the East' to a global industry worth billions” [Anime Nhật Bản: Từ 'Disney phương Đông' đến một ngành công nghiệp toàn cầu trị giá hàng tỷ]. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2019.
- ^ Nakano, Yoshiko (2002). “Who initiates a global flow? Japanese popular culture in Asia” [Ai khởi xướng một dòng chảy toàn cầu? Văn hóa đại chúng Nhật Bản tại châu Á]. Đại học Hồng Kông. Visual Communication, 2002, v. 1 n. 2, p. 229-253 (bằng tiếng Anh). tr. 243. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ Mori, Yoshirō (21 tháng 9 năm 2000). “第百五十回国会における森内閣総理大臣所信表明演説” [Tuyên bố của thủ tướng nội các Mori tại phiên họp Quốc hội lần thứ 150]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2002.
- ^ Mori, Yoshirō (21 tháng 9 năm 2000). “Policy Speech By Prime Minister Yoshiro Mori To The 150th Session Of The Diet” [Bài phát biểu chính sách của thủ tướng Mori Yoshirō đối với phiên họp Quốc hội lần thứ 150]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
- ^ “平成12年度 教育白書: 平成12年度 我が国の文教施策” [Sách trắng năm tài chính 2000: Chính sách giáo dục của Nhật Bản năm 2000]. Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 11 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2019.
- ^ “経済産業省 「国は民間に口を挟まない」 デジタルコンテンツ分野で育成支援” [Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp: 'quốc gia không nói chuyện với khu vực tư nhân' hỗ trợ phát triển trong lĩnh vực nội dung số]. Tuần san BCN (bằng tiếng Nhật). 18 tháng 3 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2012.
- ^ Garvizu, Nicolas (14 tháng 2 năm 2017). “Cool Japan: the relationships between the state and the cultural industries” [Cool Japan: Mối quan hệ giữa chính phủ và các ngành công nghiệp văn hóa]. White Rose University Consortium (bằng tiếng Anh). Đại học Sheffield. tr. 206. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018. Tóm lược dễ hiểu.
- ^ Koizumi, Junichirō (4 tháng 2 năm 2002). “Policy Speech by Prime Minister Junichiro Koizumi to the 154th Session of the Diet” [Bài phát biểu của thủ tướng Junichiro Koizumi đối với phiên họp Quốc hội lần thứ 154]. Bọ Ngoại giao (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2002. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2002.
- ^ a b “知的財産戦略本部” [Trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 2 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2019.
- ^ a b c d “知的財産戦略会議” [Hội nghị chiến lược sở hữu trí tuệ]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 3 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2019.
- ^ “知的財産戦略大綱” [Đề cương chiến lược sở hữu trí tuệ] (PDF). Văn phòng Thủ tướng (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 7 năm 2001. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2003. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2003.
- ^ “The Content Overseas Distribution Association (CODA)” [Hiệp hội Phân phối hải ngoại nội dung (CODA)]. Hiệp hội Phân phối hải ngoại nội dung (CODA) (bằng tiếng Anh). 1 tháng 8 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2010.
- ^ Katsumata, Hiro (2012). “Japanese popular culture in East Asia: a new insight into regional community building” [Văn hóa đại chúng Nhật Bản tại Đông Á: Một cái nhìn sâu sắc mới trong xây dựng cộng đồng khu vực]. International Relations of the Asia-Pacific. Volume 12, Issue 1 (bằng tiếng Anh). tr. 144. doi:10.1093/irap/lcr011. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ Otmazgin, Nissim (2013). “Regionalizing Culture: The Political Economy of Japanese Popular Culture in Asia” [Văn hóa khu vực hóa: Nền kinh tế chính trị của văn hóa đại chúng Nhật Bản tại châu Á] (bằng tiếng Anh). University of Hawaiʻi Press. tr. 122. ISBN 978-0-8248-3694-8.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ “グローバル観光戦略” [Chiến lược du lịch toàn cầu] (PDF). Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch (bằng tiếng Nhật). 14 tháng 12 năm 2002. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2003. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2003.
- ^ Koizumi, Junichirō (31 tháng 1 năm 2003). “General Policy Speech by Prime Minister Junichiro Koizumi to the 156th Session of the Diet” [Bài phát biểu chính sách chung của thủ tướng Koizumi Junichirō đối với phiên họp Quốc hội lần thứ 156] (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2003.
- ^ Kukhee, Choo (2009). “The Making of 'Cool Japan': The Japanese Government's Cultural and Economic Policies Toward the Anime Industry in the Global Age” [Sự hình thành 'Cool Japan': Các chính sách kinh tế và văn hóa của chính phủ Nhật Bản hướng tới công nghiệp anime trong thời đại toàn cầu] (PDF). Đại học Tōkyō (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ “調査報告書 米国アニメ市場の実態と展望” [Báo cáo nghiên cứu: Điều kiện thực tế và triển vọng của thị trường anime tại Hoa Kỳ] (PDF). Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 3 năm 2003. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2014.
- ^ “経済産業省が第1回コンテンツ産業国際戦略研究会を開催” [Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp tổ chức hội thảo nghiên cứu chiến lược quốc tế công nghiệp nội dung lần đầu tiên]. Famitsu (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 4 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2018.
- ^ “知的財産の創造、保護及び活用に関する推進計画” [Kế hoạch xúc tiến sáng tạo, bảo vệ và sử dụng sở hữu trí tuệ]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 7 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2003. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2003.
- ^ “「知的財産の創造、保護及び活用に関する推進計画」の 重要政策課題に関する専門調査会の設置について” [Về việc thành lập cuộc họp nghiên cứu chuyên ngành các vấn đề chính sách quan trọng của "kế hoạch xúc tiến về sáng tạo, bảo vệ và sử dụng tài sản trí tuệ"]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 7 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2003.
- ^ “コンテンツ産業国際戦略研究会中間とりまとめ” [Báo cáo tạm thời về cuộc họp nghiên cứu chiến lược quốc tế ngành công nghiệp nội dung] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 5 năm 2003. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2005.
- ^ a b “コンテンツ産業の現状と課題 コンテンツ産業の現状と課題 ~コンテンツ産業の国際競争力強化に向けて~” [Công nghiệp nội dung, tình hình hiện tại và các vấn đề: Hướng tới tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của công nghiệp nội dung] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 2 năm 2005. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2005.
- ^ Koizumi, Junichirō (19 tháng 1 năm 2004). “General Policy Speech by Prime Minister Junichiro Koizumi to the 159th Session of the Diet” [Bài phát biểu chính sách chung của thủ tướng Koizumi Junichirō tại phiên họp Quốc hội lần thứ 159]. Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2004. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2004.
- ^ a b “コンテンツビジネス振興政策(案)― ソフトパワー” [Chính sách xúc tiến kinh doanh nội dung (dự thảo)
- Chiến lược quốc gia trong kỷ nguyên quyền lực mềm -] (PDF). Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 4 năm 2004. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2004. line feed character trong
|trans-title=
tại ký tự số 50 (trợ giúp) - ^ “知的財産推進計画2004” [Kế hoạch xúc tiến sở hữu trí tuệ 2004] (PDF). Văn phòng Thủ tướng (bằng tiếng Nhật). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ Garvizu, Nicolas (14 tháng 2 năm 2017). “Cool Japan: the relationships between the state and the cultural industries” [Cool Japan: Mối quan hệ giữa chính phủ và các ngành công nghiệp văn hóa]. White Rose University Consortium (bằng tiếng Anh). Đại học Sheffield. tr. 65. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018. Tóm lược dễ hiểu.
- ^ a b “Japan Animation Industry Trends” [Xu hướng ngành công nghiệp hoạt hình Nhật Bản] (PDF). Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (bằng tiếng Anh). tháng 7 năm 2005. tr. 7. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2014. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
International sales data is not exact, but around 60% of the anime shown worldwide is made in Japan, according to a METI report issued in January 2004.
- ^ “日本のアニメを活用した国際観光交流等の拡大による地域活性化調査” [Nghiên cứu tái tạo lại sức sống vùng bằng mở rộng trao đổi du lịch quốc tế thông qua sử dụng anime Nhật Bản] (PDF). Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 2 năm 2006. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2006.
- ^ Asō, Tarō (28 tháng 4 năm 2006). “文化外交の新発想―みなさんの力を求めています” [Ý tưởng mới về ngoại giao văn hóa - Tìm kiếm sức mạnh của bạn]. Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2006. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ “Tourism Nation Promotion Basic Law” [Luật cơ bản xúc tiến quốc gia du lịch]. Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch (bằng tiếng Anh). 1 tháng 1 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Asian Gateway Initiative” [Sáng kiến cửa ngõ châu Á] (PDF). Văn phòng Nội các (bằng tiếng Anh). 16 tháng 5 năm 2007. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2007.
- ^ “~文化産業を育む感性豊かな土壌の充実と戦略的な発信~” [Sự phong phú và thông điệp chiến lược của một vùng đất giàu có để nuôi dưỡng các ngành công nghiệp văn hóa] (PDF). Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 5 năm 2007. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2007.
- ^ “知的財産推進計画2007” [Kế hoạch xúc tiến sở hữu trí tuệ 2007]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 31 tháng 5 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Contents Global Strategy Final Report” [Báo cuối cuối cùng chiến lược toàn cầu nội dung] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 19 tháng 12 năm 2007. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2010.
- ^ Garvizu, Nicolas (14 tháng 2 năm 2017). “Cool Japan: the relationships between the state and the cultural industries” [Cool Japan: Mối quan hệ giữa chính phủ và các ngành công nghiệp văn hóa]. White Rose University Consortium (bằng tiếng Anh). Đại học Sheffield. tr. 207. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018. Tóm lược dễ hiểu.
- ^ “Inauguration Ceremony of Anime Ambassador” [Nghi thức lễ nhậm chức đại sứ anime]. Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Anh). 19 tháng 3 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2008.
- ^ “アニメ文化大使” [Đại sứ văn hóa anime]. Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2008.
- ^ Reynolds, Isabel (12 tháng 3 năm 2009). “Japan picks "schoolgirl" among cute ambassadors” [Nhật Bản chọn 'nữ sinh' trong số những đại sứ dễ thương]. Reuters (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Press Conference, 12 March 2009” [Họp báo 12 tháng 3 năm 2009]. Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Anh). 12 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ Asō, Tarō (9 tháng 4 năm 2009). “Japan's Future Development Strategy and Growth Initiative towards Doubling the Size of Asia's Economy” [Chiến lược phát triển tương lai của Nhật Bản và sáng kiến tăng trưởng hướng đến gấp đôi quy mô của kinh tế châu Á]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2009.
- ^ “「新成長戦略(基本方針)」について” [Về chiến lược tăng trưởng mới (chính sách cơ bản)] (PDF). Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 12 năm 2009. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Japan becomes a place of "Endless Discovery"” [Nhật Bản trở thành một điểm đến của 'khám phá vô tận']. The Independent (bằng tiếng Anh). 11 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2010.
- ^ a b c d e “"Cool Japan" as the Next Future of Post-industrial Japan?” [Liệu 'Cool Japan' có phải là tương lai tiếp theo của Nhật Bản thời hậu công nghiệp?] (PDF). Đại học Quốc gia Singapore (bằng tiếng Anh). Lee Kuan Yew School of Public Policy. 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2019. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ “産業構造ビジョン2010” [Tầm nhìn cơ cấu công nghiệp 2010]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2010.
- ^ “第4章 外との繋がりによる日本経済の新たな成長に向けて 第2節 ニーズの変化に対応した海外事業活動支援 2.我が国の魅力を活かしたクール・ジャパン戦略” [Chương 4: Hướng tới sự tăng trưởng mới của nền kinh tế Nhật Bản bằng cách kết nối với thế giới bên ngoài]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp. 通商白書2012 [Sách trắng thương mại 2012] (bằng tiếng Nhật). 5 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2013. Tóm lược dễ hiểu.
- ^ “クール・ジャパン 官民有識者会議” [Hội nghị chuyên gia công-tư Cool Japan]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). ものづくり/情報/流通・サービス [Sản xuất / Thông tin / Phân phối / Dịch vụ]. 19 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2010.
- ^ “クールジャパン推進に関するアクションプラン” [Kế hoạch hành động xúc tiến Cool Japan] (PDF). Văn phòng Thủ tướng (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 3 năm 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2011.
- ^ “クールジャパン官民有識者会議 提言について” [Về đề xuất hội nghị chuyên gia công-tư Cool Japan]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 12 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2011.
- ^ a b “クール・ジャパン戦略推進事業第一弾 フランスを拠点とする海外販路開拓支援事業を実施” [Dự án Xúc tiến chiến lược Cool Japan lần thứ nhất - Triển khai hỗ trợ phát triển kênh bán hàng ở nước ngoài dựa vào nguồn vốn Pháp] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 10 tháng 6 năm 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2011.
- ^ “経産省にクリエイティブ産業課 クールジャパン戦略に対応” [Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp hưởng ứng chiến lược Cool Japan]. Anime! Anime! Biz (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.
- ^ “クールジャパンロゴは佐藤可士和デザイン、野田首相が決定” [Biểu trưng Cool Japan được Kazumi Sato thiết kế, thủ tướng Noda]. Fashionsnap.com (bằng tiếng Nhật). 13 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2011.
- ^ “「Japan. Cool Japan.」ロゴマークの使用について” [Về cách sử dụng biểu trưng 「Japan. Cool Japan.」]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). クールジャパン・ロゴマークの使用 [Sử dụng biểu trưng Cool Japan]. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2019.
- ^ a b “Cool Japan Initiative” [Sáng kiến Cool Japan] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 11 tháng 12 năm 2014. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014.
- ^ “To Showcase Japan's Recovery from 3/11 through Unique Japanese Culture” [Chương trình giới thiệu sự hồi phục của Nhật Bản từ ngày 11 tháng 3 thông qua văn hóa Nhật Bản độc đáo]. Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Lan (bằng tiếng Anh). 1 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.
- ^ “日米桜寄贈100周年” [Kỷ niệm 100 năm tặng hoa anh đào Nhật Bản]. Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Nhật). tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2011.
- ^ “学友会Jazz Orchestraが「全米桜祭り」に参加” [Dàn nhạc Jazz của hội cựu sinh viên tham gia "lễ hội hoa anh đào Hoa Kỳ"]. Đại học Tohoku (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
- ^ “MISIA、米ワシントン「桜祭り」に出演 震災支援への感謝の意と歌声を届ける” [MISIA xuất hiện "lễ hội hoa anh đào" ở Washington gửi lời cảm ơn và cất tiếng hát vì sự hỗ trợ tái thiết thảm họa động đất]. Ameba (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
- ^ “日米桜寄贈100周年事業イベント・カレンダー(ワシントンDC主要行事)” [Lịch sự kiện trăm năm tặng hoa anh đào Nhật Bản - Hoa Kỳ (các sự kiện chính tại Washington DC)] (PDF). Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Nhật). 主要行事一覧, ワシントンDCでの主要行事 [Danh sách sự kiện chính, các sự kiện chính tại Washington DC]. 8 tháng 1 năm 2013. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2013. Tóm lược dễ hiểu.
- ^ “Cool Japan Strategy (Modified version of the Interim Report submitted to the Cool Japan Advisory Council)” [Chiến lược Cool Japan (Phiên bản sửa đổi của báo cáo tạm thời được đệ trình lên Hội đồng tư vấn Cool Japan)] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 1 tháng 9 năm 2012. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
- ^ Abe, Shinzō (22 tháng 2 năm 2013). “Japan is Back” [Nhật Bản trở lại]. Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2013.
- ^ “クールジャパン推進会議(第1回)議事次第” [Hội đồng xúc tiến Cool Japan (lần đầu), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2013.
- ^ “クールジャパン推進会議(第2回)議事次第” [Hội đồng xúc tiến Cool Japan (lần 2), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2013.
- ^ “クールジャパン推進会議(第3回)議事次第” [Hội đồng xúc tiến Cool Japan (lần ba), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2013.
- ^ “クールジャパン推進会議(第4回)議事次第” [Hội đồng xúc tiến Cool Japan (lần bốn), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 28 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2013.
- ^ “ポップカルチャーに関する分科会(第1回)議事次第” [Tiểu ban về văn hóa đại chúng (lần 1), thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2013.
- ^ “ポップカルチャーに関する分科会(第2回)議事次第” [Tiểu ban về văn hóa đại chúng (lần 2), thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2013.
- ^ Kelts, Roland (1 tháng 7 năm 2013). “Japan Spends Millions in Order to Be Cool” [Nhật Bản chi hàng triệu đô la để thành cool]. Time (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
- ^ “フランスに"今の日本"売込み、マグロの解体ショーに絶賛相次ぐ。” [Bán 'Nhật Bản bây giờ' tới Pháp, hoan nghênh mạnh mẽ chương trình tháo gỡ cá ngừ.]. Narinari.com (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 9 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2019.
- ^ “クールジャパン戦略の取組について” [Về cách tiếp cận chiến lược Cool Japan] (PDF). Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 4 năm 2014. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Roots of Japan — Unearthing the Cultural Matrix of Japan” [Nguồn cội Nhật Bản - Khai quật Ma trận văn hóa của Nhật Bản] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 13 tháng 10 năm 2013. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2013.
- ^ a b Hirotaka, Watanabe (14 tháng 11 năm 2016). “Shouldn't Cool Japan Be Changed?” [Liệu Cool Japan không nên bị thay đổi?]. Bộ Ngoại giao. No.35, Diplomacy (bằng tiếng Anh). Japan Foreign Policy Forum [Diễn đàn chính sách ngoại giao Nhật Bản]. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
- ^ Lies, Elaine (18 tháng 10 năm 2013). “'Cool Japan' struts the runways at Fashion Week in Tokyo” ['Cool Japan' sải bước trên sàn diễn thời trang tại Tuần lễ thời trang ở Tokyo]. Reuters (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2013.
- ^ “「和食」がユネスコ無形文化遺産に登録されました!” ['ẩm thực Nhật Bản' đã được đăng ký là một di sản văn hóa phi vật thể UNESCO]. Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (bằng tiếng Nhật). 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
- ^ “電通、クール・ジャパン戦略で中小企業の海外進出支援” [Dentsu hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng ra nước ngoài thông qua chiến lược Cool Japan]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第1回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần đầu), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 14 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第2回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ hai), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 22 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2014.
- ^ a b c d Kelts, Roland (28 tháng 11 năm 2014). “Cool Japan sets its sights on Southeast Asia” [Cool Japan thiết lập tầm nhìn đến Đông Nam Á]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2014.
- ^ “CJムーブメント推進会議(第1回)議事次第” [Hội nghị xúc tiến phong trào Cool Japan (lần 1), thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2014.
- ^ “CJムーブメント推進会議~クールジャパンをデザインする~(通称:第2期クールジャパン推進会議)の開催について” [Hội nghị xúc tiến phong trào Cool Japan - Thiết kế Cool Japan (Hội nghị xúc tiến Cool Japan lần 2)]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 8 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2014.
- ^ “CJムーブメント推進会議(第3回)議事次第” [Hội nghị xúc tiến phong trào Cool Japan (lần 3), thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2014.
- ^ “CJムーブメント推進会議(第4回)議事次第” [Hội nghị xúc tiến phong trào Cool Japan (lần 4), thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 31 tháng 7 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2014.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第3回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ ba), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 7 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2014.
- ^ “METI to Start the First Cross-Industry Anti-Piracy Measures for Manga and Anime” [METI bắt đầu các biện pháp đầu tiên chống vi phạm bản quyền trong công nghiệp giao thoa anime và manga]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 28 tháng 7 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ “Cool Japan Proposal” [Đề xuất Cool Japan] (PDF). Văn phòng Nội các (bằng tiếng Anh). 26 tháng 8 năm 2014. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2014. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ a b “CJムーブメント推進会議(第5回)議事次第” [Hội nghị xúc tiến phong trào Cool Japan (lần 5), thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 28 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2014.
- ^ Inada, Tomomi (26 tháng 8 năm 2014). “Declaration of Cool Japan's Mission” [Tuyên bố sứ mệnh của Cool Japan] (PDF). Văn phòng Nội các (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2014. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ “日本政府観光局(JNTO)とクールジャパン機構との業務連携について” [Cộng tác thương mại giữa Cơ quan Xúc tiến Du lịch Nhật Bản (JNTO) và quỹ Cool Japan] (PDF). Cơ quan Xúc tiến Du lịch Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). 5 tháng 9 năm 2014. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2019.
- ^ “METI to Start the Second Project for Promoting Cross-Industry Anti-Piracy Measures for Manga and Anime” [METI bắt đầu Dự án thứ hai để thúc đẩy các biện pháp chống vi phạm bản quyền trong công nghiệp giao thoa Manga và Anime]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 16 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2014. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第4回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ bốn), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2014.
- ^ “クールジャパン戦略推進会議(第1回) 議事次第(案)” [Hội nghị xúc tiến chiến lược Cool Japan (lần 1), thứ tự nghị sự (bản thảo)]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
- ^ “クールジャパン戦略推進会議(第2回) 議事次第(案)” [Hội nghị xúc tiến chiến lược Cool Japan (lần 2), thứ tự nghị sự (bản thảo)]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 2 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2015.
- ^ “クールジャパン戦略推進会議(第3回) 議事次第(案)” [Hội nghị xúc tiến chiến lược Cool Japan (lần 3), thứ tự nghị sự (bản thảo)]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
- ^ “クールジャパン戦略推進会議(第4回) 議事次第” [Hội nghị xúc tiến chiến lược Cool Japan (lần 4), thứ tự nghị sự (bản thảo)]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 22 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
- ^ “クールジャパン戦略推進会議(第5回) 議事次第” [Hội nghị xúc tiến chiến lược Cool Japan (lần 5), thứ tự nghị sự (bản thảo)]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2015.
- ^ “クールジャパン戦略推進会議(第6回) 議事次第” [Hội nghị xúc tiến chiến lược Cool Japan (lần 6), thứ tự nghị sự (bản thảo)]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015.
- ^ “メディア芸術データベース” [Cơ sở dữ liệu nghệ thuật truyền thông]. Cục Văn hóa (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2019.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第5回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ năm), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2015.
- ^ Nagata, Kazuaki (5 tháng 6 năm 2015). “'Cool Japan' complex envisioned in Saitama” [Khu phức hợp 'Cool Japan' được hình dung tại Satama]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第6回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ sáu), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2015.
- ^ “「クールジャパン資源を観光に活用した地域経済活性化研究会」の報告書を取りまとめました” [Chúng tôi biên soạn báo cáo về 'nhóm nghiên cứu phục hồi kinh tế khu vực sử dụng tài nguyên Cool Japan dành cho du lịch']. Cục Du lịch Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第7回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ bảy), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 29 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2015.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第8回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ tám), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 11 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2015.
- ^ “文化庁におけるロケ撮影の促進への取組みについて” [Về cách tiếp cận để quảng bá nhiếp ảnh địa điểm trong Cục Văn hóa] (PDF). Cục Văn hóa (bằng tiếng Nhật). 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2019.
- ^ Washida, Meruro (15 tháng 2 năm 2019). “How to Grow Japan's Feeble Art Market” [Làm thế nào để phát triển thị trường nghệ thuật yếu ớt của Nhật Bản]. Nippon.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2019.
- ^ “大分県クールジャパン推進イニシアティブの策定について” [Về sự phát triển của sáng kiến xúc tiến Cool Japan Ōita]. Ōita (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 12 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2016.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第9回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ chín), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 13 tháng 11 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2016.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第10回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ mười), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 3 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2017.
- ^ “METI Releases Concept Book: A Compilation of Traditional Japanese Value as the Foundation of Commodities and Services under the Cool Japan Initiative”. Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (Nhật Bản) (bằng tiếng Anh). 8 tháng 3 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2017. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ “Efforts to Promote Understanding of and Trust in Japan” [Nỗ lực thúc đẩy sự hiểu biết và tin tưởng Nhật Bản] (PDF). Bộ Ngoại giao (bằng tiếng Anh). 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2019. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ Stanislaus, Warren A (22 tháng 7 năm 2017). “Japan House: Tokyo's New Public Diplomacy Push” [Japan House: Đẩy mạnh ngoại giao công chúng mới của Nhật Bản]. The Diplomat (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2017.
- ^ “クールジャパン推進会議in和歌山について” [Về hội nghị xúc tiến Cool Japan tại Wakayama]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 7 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2017.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第11回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ 11), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 7 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2017.
- ^ “大阪クールジャパンセミナー 議事次第” [Hội thảo Cool Japan vùng Osaka, thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 7 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2017.
- ^ “播磨圏域クールジャパンセミナー 議事次第” [Hội thảo Cool Japan vùng Harima, thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 8 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2017.
- ^ “Cool Japan: Creation, Production, and Fabrication of the Cool” [Cool Japan: Sáng tạo, sản xuất và chế tạo của thú vị]. Trung tâm nghiên cứu văn hóa vật thế tại Leiden, Hà Lan (bằng tiếng Anh). 4 tháng 9 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2017.
- ^ “平成29年度「JAPANブランド等プロデュース支援事業」の採択結果を公表しました(2017年9月14日)” [Chúng tôi đã công bố kết quả áp dụng năm 2017 'dự án hỗ trợ sản xuất JAPAN brand' (14 tháng 9 năm 2017)]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 14 tháng 9 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2017.
- ^ “コスプレ・アニメ パネルディスカッション「コスプレ・アニメによる魅力向上に向けて名古屋が進むべき道」 議事次第” [Cosplay - Thảo luận bảng vẽ anime 'Cách Nagoya nên hướng tới sự quyến rũ với cosplay - anime', thứ tự nghị sự]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 31 tháng 10 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2017.
- ^ “「クールジャパン推進会議 in 神戸」を開催します” [Chúng tôi tổ chức 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' tại Kobe]. Kobe (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 12 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2017.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第12回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ 12), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 12 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2017.
- ^ “平成30年度クールジャパン戦略推進特命委員会提言” [Đề xuất hội đồng đặc biệt phụ trách xúc tiến chiến lược Cool Japan năm 2018] (PDF). Đảng Dân chủ Tự do (bằng tiếng Nhật). 31 tháng 5 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ “「クールジャパン推進会議 in 福岡」を開催します!” [Chúng tôi sẽ tổ chức 'hội nghị xúc tiến Cool Japan tại Fukuoka']. Fukuoka (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2018.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第13回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ 13), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 10 tháng 11 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2018.
- ^ “平成 29 年度補正インバウンド型クールジャパンビジネス環境整備事業” [Dự án cải thiện môi trường thương mại Cool Japan nội địa sửa đổi năm 2017] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 3 năm 2019. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2019.
- ^ “クールジャパン戦略見直しへ 政府、省庁間連携を強化” [Chính phủ tăng cường hợp tác giữa các bộ để đánh giá chiến lược Cool Japan]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 3 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2019.
- ^ “'Cool Japan' graces runway at METI fashion show #AsiaNewsNetwork” ['Cool Japan' trọng đãi sàn diễn thời trang tại chương trình thời trang METI #AsiaNewsNetwork]. Eleven Media Group (bằng tiếng Anh). 24 tháng 3 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2019.
- ^ “自民がクールジャパンで提言” [LDP gợi ý tại Cool Japan]. Reuters (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 6 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2019.
- ^ “クールジャパン戦略見直し 平井科学技術相 知財本部にワーキンググループ” [Bộ trưởng đặc trách Khoa học và Công nghệ Hirai đánh giá lại chiến lược Cool Japan tại trụ sở chiến lược sở hữu trí tuệ]. Sankei Shimbun (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2019.
- ^ “新潟県の小千谷市民会館で「クールジャパン推進会議in新潟」が開催される②” ['Họi nghị Xúc tiến Cool Japan tại Niigata' sẽ được tổ chức tại Trung tâm hành chính Ojiya thuộc tỉnh Niigata lần 2]. Niigata Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 6 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2019.
- ^ “地方版クールジャパン推進会議(第14回)議事次第” [Phiên bản địa phương 'hội nghị xúc tiến Cool Japan' (lần thứ 14), biên bản lưu ngay]. Văn phòng Nội các (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 6 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2019.
- ^ “羽田空港国際線出国エリアで初、クールジャパン商材のプロモーション&デジタルマーケティング プロジェクトの参加者募集を開始” [Bắt đầu tuyển dụng ứng viên tham gia cho dự án tiếp thị số và quảng bá sản phẩm Cool Japan lần đầu tiên tại khu khởi hành bay ở sân bay quốc tế Haneda]. Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 6 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019.
- ^ “経済産業省補助事業 クールジャパンプロデュース支援事業の採択事業者5プロジェクトが決定!” [Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp quyết định thông qua trợ cấp 5 dự án của dự án hỗ trợ sản xuất Cool Japan]. PR TIMES (bằng tiếng Nhật). 19 tháng 7 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2019.
- ^ “クールジャパンプロデュース支援事業の採択プロジェクトが決定しました” [Thông qua dự án hỗ trợ sản xuất Cool Japan đã được quyết định]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 19 tháng 7 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2019.
- ^ “吉本興業HDの大崎会長、政府のクールジャパン会議欠席” [Chủ tịch của Yoshimoto Kogyo HD là Osaki bỏ lỡ hội nghị Cool Japan]. Asahi Shimbun (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 7 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2019.
- ^ “クールジャパン戦略見直し素案判明 民間主導へ転換加速” [Sửa đổi đánh giá chiến lược Cool Japan, chuyển đổi nhanh sang sáng kiến khu vực tư nhân]. Sankei Shimbun (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2019.
- ^ a b “クールジャパン発信強化へ 民間主導へ転換の新戦略” [Chiến lược mới để chuyển đổi sang sáng kiến khu vực tư nhân nhằm tăng cường thông điệp Cool Japan]. NHK (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 7 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2019.
- ^ “政府、新クールジャパン戦略を正式決定” [Chính phủ chính thức quyết định chiến lược Cool Japan mới]. Sankei Shimbun (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2019.
- ^ “クールジャパンアンバサダーに「涼宮ハルヒの憂鬱」声優の平野綾さん任命” [Diễn viên lồng tiếng phim 'Suzumiya Haruhi' là Aya Hirano được bổ nhiệm làm đại sứ Cool Japan]. Sankei Shimbun (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2019.
- ^ “クールジャパン海外需要開拓プログラムTakumi Next” [Chương trình phát triển nhu cầu hải ngoại Cool Japan 'Takumi Next']. Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). 12 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.
- ^ “クールジャパンの魅力を25カ国・地域へSNSで発信” [Truyền đạt sự hấp dẫn của Cool Japan tới 25 quốc gia và khu vực thông qua Hoa hậu Quốc tế]. Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 10 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2019.
- ^ “「クールジャパン機構による海外事業支援説明会」を開催します” ['Chỉ dẫn hỗ trợ kinh doanh nước ngoài của quỹ Cool' sẽ được tổ chức]. Văn phòng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Shikoku (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2019.
- ^ “クールジャパン海外需要開拓プログラム「TAKUMI NEXT」日本全国の「匠」企業101社が海外EC販売に挑戦”. Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). 28 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
- ^ “Japan's govt. to subsidize Hollywood film shoots”. NHK (bằng tiếng Anh). 10 tháng 1 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2020.
- ^ “羽田空港国際線出国エリアでAIカメラを活用したクールジャパン商材のデジタルマーケティングを実施”. Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 2 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2020.
- ^ Amano, Tomomichi (14 tháng 6 năm 2010). “How to Promote 'Cool Japan'?” [Cách thúc đẩy 'Cool Japan']. The Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ “Establishment of the Creative Industries Promotion Office” [Thành lập Văn phòng Xúc tiến Công nghiệp Sáng tạo]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 8 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ “クールジャパン/クリエイティブ産業” [Cool Japan / Công nghiệp sáng tạo]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2013.
- ^ a b “Promoting 'Cool Japan'” [Quảng bá 'Cool Japan']. The Japan Times (bằng tiếng Anh). 15 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ a b Mackay, Mairi (19 tháng 11 năm 2010). “Can Japan profit from its national "cool"?” [Liệu Nhật Bản có thể thu lợi từ 'cool' quốc gia?]. CNN (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ a b c d e f g “After four years Cool Japan is Y4.4 bil in the hole and continuing to show few results” [Sau bốn năm, Cool Japan bị lỗ 4,4 tỷ yên và tiếp tục cho thấy một vài kết quả]. Japan Today (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2018.
- ^ Kelts, Roland (9 tháng 7 năm 2013). “Can METI's ¥50 billion fund unfreeze 'Cool Japan'?”. The Japan Times. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2018.
- ^ Nagata, Kazuaki (29 tháng 12 năm 2013). “Cool Japan Fund chief says crafty marketing key to regional revivals” [Chú tịch quỹ Cool Japan nói về chìa khóa tiếp thị khéo léo cho sự phục hưng các vùng địa phương]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2013.
- ^ a b Makino, Yoshiji (23 tháng 2 năm 2018). “本格始動した「クールジャパン」は大丈夫? アジアで見聞の「クールコリア」はしたたか” [Cool Japan đã có khởi đầu nghiêm túc? Bạn có thấy Cool Korea tại châu Á không?]. Kenja no Sentaku 賢者の選択 [Lựa chọn của hiền giả] (bằng tiếng Nhật). 時代刺激人 Vol. 232 [Người kích thích thời đại tập 232]. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2018.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
- ^ “株式会社海外需要開拓支援機構(クールジャパン機構) 企業インタビュー” [Tổng công ty cơ chế hỗ trợ khai thác nhu cầu hải ngoại (cơ chế Cool Japan)]. Kotora (bằng tiếng Nhật). 2018. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2019.
|archive-url=
bị hỏng: lệnh lưu (trợ giúp) - ^ a b c d e f Satoshi, Itō (20 tháng 7 năm 2018). “Floundering Cool Japan Projects See Loss After Loss” [Các dự án Cool Japan loạng choạng nhận thấy thua lỗ sau thất bại]. Nippon.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2018.
|archive-url=
bị hỏng: lệnh lưu (trợ giúp) - ^ a b c d Ito, Sei (14 tháng 7 năm 2018). “迷走「クールジャパン」 相次ぐプロジェクト失敗でムダ金に” [Cool Japan đi lạc trong một loạt dự án thất bại tiêu tốn tiền bạc]. Fuji News Network (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2018.
- ^ a b Nitta, Yuji (24 tháng 10 năm 2018). “Cool Japan Fund invests $12.5m in Tastemade food video service” [Quỹ Cool Japan đầu tư 12,5 triệu US$ vào dịch vụ video ẩm thực Tastemade]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2018.
- ^ a b c d e Saito, Yuta (6 tháng 11 năm 2017). “Cool Japan Fund's big ambitions mostly fall flat” [Các tham vọng lớn của Cool Japan Fund hầu hết đều thất bại]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2017.
- ^ Ressler, Karen (20 tháng 4 năm 2018). “Cool Japan Fund Appoints Sony Music Entertainment's Naoki Kitagawa as New CEO” [Quỹ Cool Japan bổ nhiệm Naoki Kitagawa của Sony Music Entertainment làm Giám đốc điều hành mới]. Anime News Network (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.
- ^ “クールジャパン機構、多様なコンテンツで日本の魅力発信!” [Quỹ Cool Japan mang đến sự hấp dẫn của Nhật Bản với nhiều nội dung khác nhau!]. ITmedia (bằng tiếng Nhật). 14 tháng 3 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2019.
- ^ Abudheen K, Sainul (16 tháng 7 năm 2019). “Japan's startup ecosystem has yet to fully mature, says Cool Japan Fund's Shinnosuke Watanabe” [Hệ sinh thái khởi nghiệp của Nhật Bản vẫn chưa hoàn toàn trưởng thành, theo lời Watanabe Shinnosuke của quỹ Cool Japan]. e27 (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2019.
- ^ “Traditional Japanese Crafts will be Showcased to the World as a Result of the Cool Japan Initiative” [Thủ công truyền thống Nhật Bản sẽ giới thiệu với thế giới như một kết quả của sáng kiến Cool Japan]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 21 tháng 8 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Nhật xây kho lạnh 15 triệu USD tại Việt Nam”. Tuổi trẻ. 16 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2014. zero width space character trong
|title=
tại ký tự số 1 (trợ giúp) - ^ a b c “Cool Japan Fund to pump 60 billion yen into four projects” [Quỹ Cool Japan bơm 60 tỷ yên vào bốn dự án]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Anh). 25 tháng 9 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2014.
- ^ Kelts, Roland (18 tháng 4 năm 2015). “At last, Japan gets it” [Cuối cùng, Nhật Bản có được nó]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2015.
- ^ “METI to Start NIPPON QUEST” [Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp khởi động NIPPON QUEST]. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Anh). 11 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ a b Fujita, Junko (6 tháng 4 năm 2015). “Cool Japan Fund to invest in green tea cafes in U.S.” [Quỹ Cool Japan đầu tư vốn mạo hiểm vào các quán cà phê trà xanh Hoa Kỳ]. Reuters (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2015.
- ^ Antonio Pineda, Rafael (31 tháng 3 năm 2015). “Cool Japan Fund Invests In Kadokawa's Content Creator Development Projects” [Quỹ Cool Japan đầu tư vào các dự án phát triển tác giả nội dung của Kodokawa]. Anime News Network (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
- ^ Tsutsui, Jiro (13 tháng 12 năm 2018). “Japanese flip-flops get a makeover, head to New York” [Dép tông Nhật Bản được một biến đổi, hướng đến New York]. Asahi Shimbun (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2018.
- ^ “Imagica, Cool Japan Fund in venture to buy translation company SDI Media” [Imagica, quỹ Cool Japan đầu tư vốn mạo hiểm mua công ty dịch thuật SDI Media]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). 19 tháng 2 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
- ^ a b Motoharu, Kano (23 tháng 4 năm 2018). “「クールジャパン」はこんなにひどいことになっていた” ["Cool Japan" được cho là rất tệ hại]. Shūkan Gendai (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Cool Japan Fund drops Malaysia store” [Quỹ Cool Japan từ bỏ cửa hàng Malaysia]. News on Japan (bằng tiếng Anh). 12 tháng 6 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2018.
- ^ Nyoman Wira, Ni (19 tháng 7 năm 2016). “Japanese pop-culture management firm set to further expand artist base” [Công ty quản lý văn hóa đại chúng Nhật Bản thành lập để mở rộng hơn nữa số lượng nghệ sĩ]. The Jakarta Post (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2016.
- ^ a b “クールジャパン機構立て直しなるか。吉本興業と組みミャンマーに「住みます芸人」” [Quỹ Cool Japan sẽ tái cơ cấu? Nghệ sĩ biểu diễn sống ở Myanmar hợp tác với Yoshimoto Kogyo]. Business Insider (bằng tiếng Nhật). 18 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Cool Japan Fund to build theaters in Osaka” [Quỹ Cool Japan xây dựng các nhà hát tại Osaka]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Anh). 13 tháng 4 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
- ^ “アジア広域でのライブホール展開事業に出資 ―日本の音楽産業の海外市場開拓を支援-” [Vốn mạo hiểm trong kinh doanh và phát triển các địa điểm biểu diễn trực tiếp âm nhạc tại châu Á ― Hỗ trợ mở rộng thị trường nước ngoài của ngành công nghiệp âm nhạc Nhật Bản―] (PDF). Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (bằng tiếng Nhật). 28 tháng 4 năm 2017. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 21 (trợ giúp) - ^ “ASEAN における中小外食企業の出店支援事業へ出資 ―海外出店に必要なサービスをワンストップで提供―” [Đầu tư vào dự án hỗ trợ mở cửa kinh doanh nhà hàng vừa và nhỏ tại ASEAN - Cung cấp các dịch vụ cần thiết để mở cửa hàng một điểm đến mới -] (PDF). Quỹ Cool Japan (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 12 năm 2017. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2017. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 27 (trợ giúp) - ^ “ロンドンにおける日本食文化の魅力を発信する飲食・小売事業へ出資 ―賑わいのある日本食体験の空間を創出―” [Đầu tư kinh doanh bán lẻ ẩm thực và đồ uống để truyền tải sự hấp dẫn của văn hóa ẩm thực Nhật Bản tại Luân Đôn - Tạo ra một không gian trải nghiệm ẩm thực Nhật Bản sống động-] (PDF). Quỹ Cool Japan (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 10 năm 2017. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
- ^ “海外展開を目指す日本の映像コンテンツ制作を支援するファンドを設立” [Thành lập một quỹ hỗ trợ sáng tạo nội dung thị giác Nhật Bản nhằm phân phối quốc tế] (PDF). Quỹ Cool Japan (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 8 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2018.
- ^ “ヘルスケア・先端テクノロジー分野を中心に 世界で活躍できるベンチャー企業の創出・育成を目指すファンドへ LP 出資” [Quỹ đầu tư mạo hiểm LP bên trong một quỹ nuôi dưỡng các doanh nghiệp liên doanh cạnh tranh toàn cầu thuộc lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và công nghệ tiên tiến] (PDF). Quỹ Cool Japan (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 5 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 21 (trợ giúp) - ^ Wortley, Kathryn (29 tháng 7 năm 2018). “Cool Japan Park Osaka project to take nighttime entertainment to new level” [Dự án Cool Japan Park Osaka đưa giải trí buổi tối lên tầm cao mới]. Japan Today (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
- ^ “大阪城公園における日本のエンタテインメント発信事業へ出資” [Đầu tự vào kinh doanh giải trí Nhật Bản tại công viên lâu đài Osaka] (PDF). Quỹ Cool Japan (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 3 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018.
- ^ Suzuki, Kẹniro (2 tháng 12 năm 2018). “Japanese spider-thread startup nets $44m for new Thai plant” [Công ty khởi nghiệp tơ nhện Spider Nhật Bản nhận 44 triệu đô la Mỹ cho kế hoạch mới tại Thái Lan]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2018.
- ^ “ミャンマー連邦共和国における 地上波放送向けの日本コンテンツ発信事業へ出資” [Đầu tư vào kinh doanh phân phối nội dung Nhật Bản để phát sóng mặt đất tại Cộng hòa Liên bang Myanmar] (PDF). Quỹ Cool Japan (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 3 năm 2018. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2018. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 15 (trợ giúp) - ^ “Yoshimoto, NTT, Cool Japan Fund Set Up JV for Education Content” [Yoshimoto, NTT, Quỹ Cool Japan thành lập liên doanh dành cho nội dung giáo dục]. Nippon.com (bằng tiếng Anh). 21 tháng 4 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2019.
- ^ Hiroaki, Kojima (22 tháng 4 năm 2019). “吉本興業が教育に本格進出。NTTと動画配信。大崎会長「吉本は教育の会社になる」” [Yoshimoto Kogyo tham gia vào giáo dục nghiêm túc. NTT và phân phối video. Chủ tịch Osaki "Yoshimoto sẽ là một công ty giáo dục"]. Business Insider (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2019.
- ^ Hernon, Matthew (6 tháng 6 năm 2019). “Japan's king of comedy, Yoshimoto Kogyo's Hiroshi Osaki, expands his realm” [Vua hài Nhật Bản Osaki Hiroshi của Yoshimoto Kogyo mở rộng vương quốc của ông]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
- ^ “Beauty and lifestyle portal Clozette secures US$10m from Cool Japan Fund” [Cổng thông tin về sắc đẹp và lối sống Clozette được bảo trợ 10 triệu USD từ quỹ Cool Japan]. The Straits Times (bằng tiếng Anh). 11 tháng 4 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2019.
- ^ “クールジャパン機構、インフルエンサーで日本PR シンガポール企業に出資” [Quỹ Cool Japan đầu tư vào công ty Singapore nhằm PR Nhật Bản thông qua người có ảnh hưởng]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 4 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2019.
- ^ “クールジャパン機構、中国の酒類卸を買収 日本酒輸出” [Quỹ Cool Japan mua lại nhà buôn rượu Trung Quốc để xuất khẩu sake]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 18 tháng 6 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2019.
- ^ “クールジャパン機構、ゲームベンチャーへ出資” [Quỹ Cool Japan cấp vốn trong đầu tư mạo hiểm trò chơi]. Asahi Shimbun (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 7 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2019.
- ^ “クールジャパン機構、衣料生産仲介シタテルに最大10億円出資” [Quỹ Cool Japan đầu tư 1 tỷ yên vào trung gian sản xuất trang phục Citatel]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2019.
- ^ “クールジャパン機構、米酒通販に出資 日本酒の販路に” [Quỹ Cool Japan đầu tư mạo hiểm vào chuyển phát đặt hàng rượu gạo]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 22 tháng 7 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2019.
- ^ “クールジャパン機構が米アニメ配信買収、北米進出を支援” [Quỹ Cool Japan mua lại phân phối hoạt hình Hoa Kỳ và hỗ trợ mở rộng sang Bắc Mỹ]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 8 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2019.
- ^ “クールジャパン機構、北米アニメ事業者へ出資” [Quỹ Cool Japan đầu tư vào công ty hoạt hình Hoa Kỳ]. Asahi Shimbun (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 8 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2019.
- ^ “Cool Japan Fund to invest $10m in Taiwanese travel site KKDay” [Quỹ Cool Japan đầu tư 10 triệu USD vào trang du lịch Đài Loan KKDay]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Anh). 30 tháng 8 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2019.
- ^ “クールジャパン機構、米女性向けブランドに出資 約20億円” [Tổ chức Cool Japan đầu tư vào thương hiệu thời trang nữ của Hoa Kỳ (khoảng 2 tỷ yên)]. Nihon Keizai Shimbun (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 10 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2019.
- ^ “インドネシアIT大手に55億円出資=クールジャパン機構” [Quỹ Cool Japan đầu tư 5,5 tỷ yên vào công ty IT khổng lồ Indonesia]. Jiji Press (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 10 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2019.
- ^ “Creating a Vision of Japan: Promoting Cool Japan” [Sáng tạo một tầm nhìn của Nhật Bản: Xúc tiến Cool Japan]. Japan Today (bằng tiếng Anh). 12 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2012.
- ^ “Abe aims to boost the power of 'Cool Japan' cultural exports” [Abe nhắm đến việc tăng sức mạnh của xuất khẩu văn hóa 'Cool Japan']. The Nation (bằng tiếng Anh). 25 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2013.
- ^ Fujita, Junko (24 tháng 11 năm 2013). “Japan Is Cool Again, According To Japan's New 'Cool Japan Fund'” [Nhật Bản thú vị trở lại, theo quỹ Cool Japan mới của Nhật Bản]. Business Insider (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
- ^ Hiroyuki, Kishi (7 tháng 6 năm 2013). “どうすべきか? "クールジャパン戦略"の行方を左右する2つの大きな問題” [Điều gì tôi cần làm? Hai vấn đề lớn ảnh hưởng đến tương lai chiến lược Cool Japan]. Nikkei Trendy (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013.
- ^ Masakazu, Honda (27 tháng 10 năm 2014). “「クールジャパン」、本来は何をするべきか” [Cool Japan, chúng ta nên làm điều gì đầu tiên?]. Toyo Keizai (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2014.
[...] 実は韓流ドラマ収益のうち7割が、日本での売り上げなのだ。韓流ドラマは、いまや大多数のアジア諸国に売れているが、そのすべてを合わせても日本での売上げの半分にも満たない。言い換えれば、日本での安定した売上げを基礎に、アジア諸国での韓流ドラマプロモーションが行われている構図と言えるだろう [...]
- ^ Trung, Rwo (27 tháng 11 năm 2016). “Vì sao phim Nhật vắng bóng trên màn ảnh Việt?”. Zing. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2016.
- ^ a b Tahara-Stubbs, Mia (14 tháng 5 năm 2015). “Is Japan about to lose its cool?” [Liệu Nhật Bản đang đánh mất thú vị?]. CNBC (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2015.
|archive-url=
bị hỏng: đường dẫn (trợ giúp) - ^ Loveridge, Lynzee (29 tháng 4 năm 2015). “President Obama's Welcome for Japan's Prime Minister Abe Includes Thank You for Anime, Manga” [Đón tiếp của tổng thống Obama dành cho thủ tướng Nhật Bản Abe gồm cảm ơn anime, manga]. Anime News Network (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2015.
- ^ Michel, Patrick St. (19 tháng 3 năm 2015). “Japan's Ministry of Cool” [Bộ thú vị của Nhật Bản]. The Atlantic (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2015.
- ^ Taylor, Ronald (3 tháng 4 năm 2016). “Japan's indie acts make an impact in New York without the help of 'Cool Japan'” [Các hoạt động âm nhạc Indie của Nhật Bản tạo một ảnh hưởng ở New York mà không được 'Cool Japan' hỗ trợ]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016.
- ^ Keiko, Sakagami (10 tháng 11 năm 2017). “〈日本文化論〉クール・ジャパンの功罪、 戦略としての日本文化” [<Văn hóa Nhật Bản> Ưu điểm và nhược điểm của Cool Japan, văn hóa Nhật Bản như một chiến lược]. Đại học Waseda (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2017.
- ^ McLelland, Mark (1 tháng 1 năm 2017). “Negotiating "cool Japan" in research and teaching” [Đàm phán 'Cool Japan' trong nghiên cứu và giảng dạy]. Đại học Wollongong (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2019. Tóm lược dễ hiểu.
[...] The spread of Japan cool was quite different from the earlier success of Japanese manufacturing, given that alongside officially licensed and distributed cool Japan merchandise, a far greater amount has circulated via fan-driven distribution networks on the Internet [...]
- ^ Otmazgin, Nissim (2013). “Regionalizing Culture: The Political Economy of Japanese Popular Culture in Asia” [Văn hóa khu vực hóa: Nền kinh tế chính trị của văn hóa đại chúng Nhật Bản tại châu Á] (bằng tiếng Anh). University of Hawaiʻi Press. tr. 55–56. ISBN 978-0-8248-3694-8.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ Ben-Ari, Eyal; Otmazgin, Nissim Kadosh (2012). “Popular Culture and the State in East and Southeast Asia” [Văn hóa đại chúng và chính phủ tại Đông Á và Đông Nam Á] (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 19. ISBN 978-1138017108.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ “日本"酷日本"战略不仅仅是"耍酷"” [Chiến lược 'Cool Japan' của Nhật Bản không chỉ là 'cuộc chơi thú vị']. Toutiao (bằng tiếng Trung). 17 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
- ^ “日本の「クールジャパン」戦略、「もはやクールの域を超えている」=中国メディア” [Chiến lược Cool Japan 'không đơn thuần thú vị', truyền thông Trung Quốc]. Excite (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2019.
- ^ “Time to capitalize on 'Cool Japan' boom” [Thời điểm để tận dụng sự bùng nổ 'Cool Japan']. Yomiuri Shimbun (bằng tiếng Anh). 30 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2010.
- ^ “South Korea, China overtaking Japan in 'cool' culture battle” [Hàn Quốc, Trung Quốc bắt kịp Nhật Bản trong cuộc chiến văn hóa 'cool']. Asahi Shimbun (bằng tiếng Anh). 26 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ Yasumoto, Seiko (2006). “Japan and Korea as a Source of Media and Cultural Capital” [Nhật Bản và Hàn Quốc như một nguồn cội của thủ đô văn hóa và truyền thông]. Đại học Sydney (bằng tiếng Anh). ISBN 9780980667905. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2018. Tóm lược dễ hiểu (PDF).
- ^ Kelts, Roland (17 tháng 5 năm 2010). “japanamerica: why 'cool japan' is over” [Japanamerica: Tại sao 'Cool Japan' đã kết thúc]. 3:AM Magazine (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ Kelts, Roland (5 tháng 6 năm 2010). “The Politics of Popular Culture - Panel 2” [Chính trị của văn hóa đại chúng - Bảng 2] (PDF). Đại học Temple (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2011.
- ^ Miller, Laura (27 tháng 10 năm 2011). “Cute Masquerade and the Pimping of Japan” [Hóa trang dễ thương và sự yêú đuối của Nhật Bản]. Tập san Quốc tế Xã hội học Nhật Bản International Journal of Japanese Sociology. Vol. 20, Issue. 1 (bằng tiếng Anh). tr. 18–29. doi:10.1111/j.1475-6781.2011.01145.x. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2011.
- ^ Chiang, Chuck (29 tháng 6 năm 2014). “Chuck Chiang: Tokyo tries to counter South Korean pop culture with 'Cool Japan' campaign” [Chiang Chuck: Tokyo cố gắng chống lại văn hóa đại chúng Hàn Quốc với chiến dịch 'Cool Japan']. Vancouver Sun (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Artist Takashi Murakami Decries 'Cool Japan' Program” [Họa sĩ Murakami Takashi chê bai chương trình Cool Japan]. Anime News Network (bằng tiếng Anh). 7 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2012.
- ^ Otmazgin, Nissim (2012). “Geopolitics and Soft Power: Japan's Cultural Policy and Cultural Diplomacy in Asia” [Địa chính trị và quyền lực mềm: Chính sách văn hóa và Ngoại giao văn hóa của Nhật Bản tại châu Á]. Taylor & Francis. Asia-Pacific Review, Volume 19, 2012 - Issue 1 (bằng tiếng Anh). tr. 37–61. doi:10.1080/13439006.2012.678629. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ Snow, Nancy (7 tháng 11 năm 2013). “Uncool Japan: Japan's Gross National Propaganda” [Nhật Bản không thú vị: Tổng tuyên truyền quốc gia của Nhật Bản]. Metropolis (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Gackt lashes out at Cool Japan: 'Almost no results of Japanese culture exported overseas'” [Gackt đả kích Cool Cool: 'Hầu như không có kết quả nào về văn hóa Nhật Bản được xuất khẩu ra nước ngoài']. Japan Today (bằng tiếng Anh). 6 tháng 7 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2015.
- ^ Boas, Benjamin (24 tháng 4 năm 2016). “'Cool Japan' needs to listen to its target market” [Cool Japan cần lắng nghe thị trường mục tiêu]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2016.
- ^ Laurence, Henry (31 tháng 7 năm 2016). “Will 'Pokemon Go' power up Japan's 'Cool Economy'?” [Liệu 'Pokemon Go' sẽ giúp tăng sức mạnh 'kinh tế Cool' của Nhật Bản?]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2016.
- ^ Tran, John L (16 tháng 2 năm 2016). “Takashi Murakami collects more than just his thoughts” [Murakami Takashi sưu tầm nhiều hơn suy nghĩ của mình]. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2016.
- ^ Taniguchi, Takako; Nakamura, Yuji (11 tháng 7 năm 2017). “Government-Backed 'Cool Japan' Fund Hit by Harassment Claims” [Quỹ Cool Japan được chính phủ ủng hộ bị chỉ trích vì quấy rối tình dục]. Bloomberg L.P. (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2018.
- ^ Furuya, Tsunehira (11 tháng 6 năm 2018). “海外で見た酷すぎるクールジャパンの実態~マレーシア編~” [Hoàn cảnh thực tế của Cool Japan quá tệ hiện rõ tại nước ngoài - phiên bản Malaysia-]. Newsweek (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2018.
- ^ “韓国映画『パラサイト』アカデミー賞受賞は、安倍政権のクールジャパン政策の敗北だ”. JBpress (bằng tiếng Nhật). 11 tháng 2 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2020.
- ^ “Why Parasite's success is forcing a reckoning in Japan's film industry” [Tại sao thành công của Ký sinh trùng lại đang thúc ép một tính toán trong công nghiệp điện ảnh Nhật Bản]. Vox (bằng tiếng Anh). 3 tháng 3 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020.