Trần Quý Kiên
Trần Quý Kiên ( Đinh Xuân Nhạ. 1911-1965) là một nhà cách mạng Việt Nam , (bị thực dân Pháp giam cầm 11 năm tù). Ông thuộc lớp đảng viên đầu tiên thời lập quốc 1930 và cũng là lớp lãnh đạo sớm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ Bí thư Thành ủy Hà Nội -Thường Vụ xứ ủy Bắc Kỳ (1938-1940) , Bí Thư khu ủy chiến khu Quang Trung[1] , Bí thư Liên Tỉnh kháng chiến Quảng Hồng - kiêm bí thư tỉnh ủy Quảng Yên (Quảng Ninh) 1946 , Bí Thư Liên Chi - Trưởng ban căn cứ địa trung ương Việt Bắc ATK (An Toàn Khu thủ đô của Cách mạng) , Bí Thư Liên Chi Bộ - Thứ trưởng - Phó văn phòng Thủ Tướng Phủ (của Thủ tướng Hồ Chí Minh 1950[2][3]). Bí Thư 'đầu tiên' Đảng ủy khối các cơ quan trung ương[4] . Huân Chương Sao Vàng .
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Ông tên thật là Đinh Xuân Nhạ (Trần Quý Kiên, Dương Văn Ty). Sinh năm 1911 tại Bến Nứa, Hà Nội. Quê gốc xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội).
Tham gia cách mạng năm 1929, vào đảng 5/1930 (khi Đảng vừa thành lập) Trần Quý Kiên thuộc thế hệ Đảng viên đầu tiên. Kể từ khi trở thành người cộng sản, ông hoạt động cách mạng liên tục [6]và là lớp lãnh đạo sớm của Đảng. Là Ủy Viên xứ ủy Bắc Kỳ 1937 , rồi Ủy Viên Thường Vụ xứ ủy Bắc Kỳ - Bí Thư Thành ủy Hà Nội (1938-1940)Trần Quý Kiên đã có những đóng góp quan trọng to lớn vào công tác xây dựng lực lượng của Đảng, để tiến tới lật đổ ách đô hộ của thực dân, phát xít giành độc lập dân tộc. Bị thực dân Pháp giam cầm 11 năm [7][8] tại nhiều Nhà tù Hỏa Lò, Nhà tù Sơn La [9] , Hải Phòng, Bắc Giang, Thái Nguyên, Nghĩa Lộ..vv.. Ông đã cùng với các đồng chí tiền bối ưu tú của đảng nêu cao lòng yêu nước quả cảm, bất khuất chống lại sự đàn áp bạo tàn trong ngục tù của Thực dân đế quốc : 1931 nhóm tù cộng sản : Trần Quý Kiên, Lê Duẩn ( Tổng Bí thư của Đảng 1960-1986), Lê Thanh Nghị, Khuất Duy Tiến, Vũ Thiện Chân...vv. cùng nhiều tù nhân khác đấu tranh lưu huyết với giặc Pháp tại nhà tù Hải Phòng (giặc Pháp bắn chết 9 chiến sĩ yêu nước, nhưng việc đưa các tù nhân ra địa ngục Côn Đảo của thực dân Pháp đã thất bại)[10] . 1932 Trần Quý Kiên cùng với đồng chí Trường Chinh (Tổng Bí thư của Đảng 1941-1956), Bùi Vũ Trụ, Trần Bảo...vv. làm báo để tuyên truyền và giữ vững khí phách cách mạng tại nhà tù Hỏa Lò[11]. 1933 Trần Quý Kiên, Lê Duẩn, Trường Chinh, Khuất Duy Tiến, Trịnh Đình Cửu..vv.. trong nhóm 22 người cộng sản cầm đầu tù nhân đấu tranh chống Pháp tại nhà tù Sơn La [12]( hơn 30 tù nhân hy sinh, Trần Quý Kiên bị tra tấn không cử động được, kề cận cái chết)[13]. 1935-1936 Trần Quý Kiên, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Việt Châu..vv. đã thành lập chi bộ đảng bí mật tại nhà tù Sơn La (đứng sau chỉ đạo hội đồng Thống Nhất tổ chức đời sống cho tù nhân và đấu tranh chống lại sự đàn áp khắc nghiệt trong tù của thực dân Pháp )[14]. 1942-1943 Trần Quý Kiên, Trần Quốc Hoàn.... lãnh đạo tù nhân chống Pháp ở nhà lao Bắc Giang Đòi cải thiện chế độ nhà tù và lãnh đạo nhân dân Bắc Giang chống thuế thắng lợi[15] . 2/1944 Trần Quý Kiên hướng dẫn chỉ đạo 150 tù nhân chính trị Từ Hỏa Lò lên Sơn La an toàn mạnh khỏe.11/1944 Trần Quý Kiên, Văn Tiến Dũng và Lê Đức Thọ Hội ngộ gặp mặt tại nhà tù Hỏa Lò[16]. 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp Trần Quý Kiên cùng các đồng chí vượt ngục tại Nghĩa Lộ.
1936 Ra tù sau 6 năm bị giam cầm trong ngục tù của Thực Dân Pháp lần 1 . Trần Quý Kiên có những cống hiến to lớn trong việc xây dựng lực lượng của đảng và cách mạng, là một trong ba người đầu tiên chủ chốt đứng ra thành lập Xứ ủy Bắc Kỳ 'lâm thời' 1936, tham gia phát triển và thành lập lại xứ ủy Bắc Kỳ 'chính thức' 3/1937, thành lập liên Xứ Ủy Bắc kỳ- Bắc Trung Kỳ 11/1937 và xây dựng lại một loạt tổ chức Đảng quan trọng ở Bắc Kỳ đã bị giặc Pháp phá vỡ trước đó :
- 8/1936 ba đồng chí Trần Quý Kiên, Nguyễn Văn Cừ (Tổng Bí Thư của đảng 1938-1940 Bị giặc Pháp giết hại 28/8/1941.Là người Hoạt động trong 'nhóm' sát cánh với các đ/c Trần Quý Kiên và đ/c Nguyễn Văn Minh vào những năm 1936-1940[17]) và Nguyễn Văn Minh (một đảng viên vừa tốt nghiệp trường đảng Phương Đông ở Nga về) tổ chức cuộc họp tại Gia lâm(Hà Nội) thành lập ra cơ quan lãnh đạo "lâm thời" của Xứ ủy Bắc Kỳ .[18] lấy tên là 'Ủy Ban Sáng Kiến'. Dưới sự chỉ đạo của 'Ủy Ban Sáng Kiến' Các tổ chức Đảng được thành lập lại ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định... Lực lượng của đảng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. (lúc này Nhóm ba đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Trần Quý Kiên, Nguyễn Văn Minh phụ trách công tác móc nối liên hệ với các đồng chí ở Trung Kỳ, đồng thời trực tiếp tham gia khôi phục và phát triển các cơ sở Đảng ở Hà Nội và các vùng phụ cận).[19]
- 3/1937 các đồng chí : Trần Quý Kiên, Trường Chinh, Tô Hiệu, Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện, Nguyễn Văn Minh, Hoàng Quốc Việt.... đã mở một cuộc họp thành lập lại Xứ Ủy Bắc Kỳ. Bầu Đồng chí Hoàng Tú Hưu ( Hoàng Văn Nọn) làm bí thư xứ ủy, Nguyễn Văn Minh làm phó bí thư.[20]
- 3/1937 Ông tham gia tái lập Thành ủy Hà Nội cùng đồng chí Lương Khánh Thiện, Trần Quốc Hoàn, Tạ Quang sần...vv . Trần Quý Kiên ( lúc này là Xứ Ủy Viên Bắc Kỳ -Thường Vụ Thành Ủy ) có nhiệm vụ xây dựng lại và tổ chức mới các chi bộ đảng, Tổ chức các lớp bồi dưỡng về chính trị, chỉ đạo phối hợp đấu tranh của thanh niên công nhân 'Phong trào Ái Hữu' .[21]
- 4/1937 Trần Quý Kiên cùng Hoàng Quốc Việt là hai Xứ Ủy viên được Xứ Ủy cử xuống 'trực tiếp tăng cường' cho công tác khôi phục lại tổ chức Đảng ở Hải Phòng [22]. Tại ngõ đá, Phố Cát Dài. Trần Quý Kiên cùng Nguyễn Văn Linh ( Tổng Bí thư của Đảng 1986-1991), Nguyễn Văn Vượng, Hoàng Văn Trành, Tư Thành...tổ chức hội nghị thành lập lại Thành Ủy Hải Phòng. Bầu đồng chí Nguyễn Công Hòa làm Bí thư Thành ủy.Tiếp theo qua thời gian tìm hiểu kỹ mọi mặt và trình độ của Đảng viên, Trần Quý Kiên đã tiến hành thành lập lại chi bộ nhà máy xi măng Hải Phòng[23]. Đồng thời ông Trần Quý Kiên cũng tổ chức củng cố và xây dựng lại Chi bộ Đảng nhà máy tơ Hải Phòng.[24]
- 11/1937 Ông tham gia thành lập liên Xứ Ủy Bắc Kỳ - Bắc Trung Kỳ. Tại Hà Nội Nhóm Ba ông Trần Quý Kiên, Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Văn Minh thành lập ra "Ủy Ban Hành Động" để Làm nhiệm vụ của xứ ủy Bắc Kỳ.[25]
- 1938 Trần Quý Kiên trực tiếp về thành lập chi bộ đảng nòng cốt đầu tiên của hai tỉnh Sơn Tây & Hà Đông. Công nhận "chi bộ dự bị" Đa Phúc do đồng chí Phan Trọng Tuệ làm bí thư là "chi bộ chính thức" của đảng. Ông giao nhiệm vụ cho chi bộ lãnh đạo phong trào cách mạng trong nhân dân tỉnh Sơn Tây và hoạt động theo sự chỉ đạo của Thành ủy Hà Nội.[26]
- 15/5/1938 tại tỉnh Hà Đông. Trần Quý Kiên trực tiếp thành lập "chi bộ ghép" La cả - Đại mỗ - Thượng Phát, kết nạp ba đảng viên mới và cử đồng chí Dương Nhật Đại làm bí thư chi bộ, Ông thay mặt Xứ Ủy giao nhiệm vụ cho Chi bộ lãnh đạo phong trào cách mạng toàn tỉnh, đồng thời lập ban vận động thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Đông .[27]
- 10/1939, đồng chí Trần Quý Kiên cùng với đồng chí Lương Khánh Thiện đã trực tiếp xây dựng căn cứ "bí mật"của Đảng tại Phù Ninh - Phú Thọ và "gieo những hạt giống cách mạng đầu tiên" với hai cơ sở cách mạng là Trạm Thản, Cẩm Sơn. ( đánh dấu mốc về sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ).[28]
- 15/05/1945 ông Trần Quý Kiên triệu tập hội nghị thành lập tỉnh ủy 'lâm thời' tỉnh Ninh Bình cử đồng chí Lê Thành (tức Nguyễn Văn Mộc) làm bí thư tỉnh ủy.Tăng Cường thêm đồng chí Lương Nhân (một cán bộ vừa tù ra, phụ trách về quân sự). Ba tháng sau 20/8/1945 các đồng chí trong 'Tỉnh ủy lâm thời' do ông thành lập đã lãnh đạo cướp chính quyền thành công tại địa phương.[29]
Năm 1938 bộ máy Thành ủy Hà Nội 'Kiện Toàn' Ông Trần Quý Kiên được bầu là Bí Thư Thành ủy Hà Nội, Đảng cũng bổ sung thêm hai đảng viên từ phong trào công nhân là Văn Tiến Dũng và Nguyễn Văn Trân vào thành ủy Hà Nội[30]. 4/1938 Ông vào ban lãnh đạo cao nhất là Ban Thường vụ Xứ Ủy Bắc Kỳ với Hoàng Văn Thụ và Lương Khánh Thiện[31] .Ở cương vị thường vụ xứ ủy Bắc Kỳ - Bí thư Thành ủy Hà Nội, ông đã chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động bí mật và hoạt động báo chí công khai của đảng( ở thời điểm này do đồng chí Trường Chinh - xứ ủy viên bắc kỳ phụ trách). Do vậy phong trào cách mạng, cơ sở Đảng và số lượng Đảng viên phát triển mạnh mẽ.....
Tháng 7/1939 thực dân Pháp khủng bố gắt gao, chỉ trong 2 tháng chúng đã tổ chức vây bắt khám xét nơi ở và cơ quan làm việc của đồng chí Trần Quý Kiên ( Bí thư thành ủy Hà Nội- Thường vụ Xứ Ủy Bắc Kỳ ) 2 lần, nhưng không bắt được ông.[32] Trong 10 năm đầu (1930 - 1940) hoạt động đấu tranh bí mật của đảng bộ Hà Nội. Trần Quý Kiên là Bí Thư Thành ủy Hà Nội duy nhất' thoát được máy chém của thực dân Pháp. Đồng thời Trần Quý Kiên và Lương Khánh Thiện cũng là hai Bí Thư Thành ủy Hà Nội chính thức' tồn tại lâu nhất trong thời gian Bí Mật Của Đảng 1940-1945[33] .
Giữa tháng 9/1939 ông nhận nhiệm vụ "xây dựng căn cứ bí mật của Đảng" tại Phú Thọ cùng với đồng chí Lương Khánh Thiện. Đồng chí Nguyễn Mạnh Đạt (tức Lộc ái ) thay ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội và Đồng chí Trần Quốc Hoàn được phân công làm phó bí thư [34].Tháng 6/1940 ông bị thực dân Pháp bắt 'lần thứ hai' tại Bắc Giang.[35]
9/3/1945 vượt ngục (sau 5 năm tù lần hai của thực dân Pháp ).Trần Quý Kiên đã đóng góp quan trọng vào thành công của cách mạng tháng 8/1945 của đất nước : Là Bí Thư Khu Ủy (đầu tháng 4 năm 1945) Phụ trách 5 tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa (thuộc Chiến khu Quang Trung) cùng hai tỉnh nữa là Sơn La, Lai Châu". Ông đã cùng đồng chí Văn Tiến Dũng (ủy viên thường trực ủy ban quân sự Bắc Kỳ) lãnh đạo xây dựng lực lượng tiến tới giành chính quyền ở ba tỉnh (Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa)[36].
Sau đó Ông đại diện cho Xứ Ủy Bắc Kỳ và Tổng bộ Việt Minh trực tiếp lãnh đạo Cướp chính quyền tại hai tỉnh Sơn La và Lai Châu. 28/9/1945 tại Mộc Châu ông đã thuyết phục Bố Chánh Sa Văn Minh đi theo cách mạng, gây áp lực bắt bọn Nhật trao vũ khí kho Tàng . 9/10/19459 Ông tổ chức quần chúng mít tinh tại đồi Khau Cả thành lập chính quyền cách mạng tỉnh Sơn La chỉ định ông cầm Văn Dung làm chủ tịch, Sa Văn Minh làm phó chủ tịch. Tiếp theo Ông chỉ đạo thành lập chính quyền đầu tiên tại huyện Quỳnh Nhai thuộc tỉnh Lai châu lúc bấy giờ .[37]
Cách mạng tháng 8 thành công Ông là Bí Thư khu ủy liên tỉnh kháng chiến Quảng Hồng[38] kiêm bí thư tỉnh Quảng Yên (Quảng Ninh[39]). Ủy viên thường vụ Liên Khu 3[40], phụ trách Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An, Thái Bình. Bí thư Đảng ủy liên chi bộ - Trưởng Ban căn cứ địa Trung ương Việt Bắc (ATK Thủ đô của kháng chiến), chỉ huy xây dựng và bảo vệ căn cứ địa, đóng góp lớn lao vào công cuộc kháng chiến 9 năm của dân tộc [41] Sau đó ông là Thứ trưởng - phó văn phòng thủ tướng phủ - Bí thư Đảng ủy liên chi (của thủ tướng Hồ Chí Minh)1950. kiêm phó ban tổ chức trung ương 1951. Bí thư 'đầu tiên' của Đảng ủy khối các cơ quan trung ương 1952...v.v..[42]
Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình Ông đã trực tiếp giác ngộ, bồi dưỡng và kết nạp đảng nhiều chiến sĩ cách mạng, mà sau này trở thành những cán bộ ưu tú của đảng như : Văn Tiến Dũng (đại tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng)[43], Hoàng Minh Giám (bộ trưởng bộ Ngoại giao)[44], "toàn bộ chi bộ dự bị" của đ/c Phan Trọng Tuệ[45] (tư lệnh đầu tiên của lực lượng công an vũ trang, Phó Thủ tướng Chính phủ), Dương Nhật Đại (Bí thư Thành ủy Hà Nội 9/1949)[46]. Bùi Thọ Chuyên (bí thư châu ủy Mộc Châu, bí thư tỉnh ủy Sơn La).[47]
1953 bệnh nặng , Ông được Đảng và Chính phủ đưa đi chữa bệnh ở nước ngoài một thời gian dài. Về nước, ông thay mặt Chủ tịch nước Hồ Chí Minh điều tra sửa sai trong công tác cải cách ruộng đất tại tỉnh Vĩnh Phúc.[48]. Ông mất tại Hà Nội năm 1965 do bệnh nặng.
Vinh danh
[sửa | sửa mã nguồn]Tên ông được đặt cho 4 con đường tại 4 thành phố lớn của đất nước :
- Tại thủ đô Hà Nội .
- Thành phố Hồ Chí Minh .
- Thành phố Đà Nẵng.
- Thành phố Huế.
Huân chương
[sửa | sửa mã nguồn]- Huân chương Sao Vàng[49]
- Huân chương Hồ Chí Minh[50]
- Huân chương Kháng chiến hạng nhất
- Huân chương Lao động hạng nhất.[51]
Gia đình
[sửa | sửa mã nguồn]Vợ ông là bà Lê Thị Tấn (tức Nguyễn Thị Đáp). Bà đã một mình thay ông đùm bọc nuôi dạy sáu người con trưởng thành khôn lớn. Bà cũng là một chiến sĩ cách mạng được trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huy chương Kháng chiến hạng nhất và Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ BAN TỔ CHỨC 283 TC/TW , HÀ NỘI , ngày 24/5/1997
- ^ “Trần Quý Kiên Chiến sỹ Cộng sản ba lần bị đày lên ngục Sơn La”. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2022.
- ^ Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Lịch sử Đảng bộ Hà Nội (1930-2000), Nxb Hà Nội, 2004, tr.70; Lịch sử Đảng bộ Hà Nội 1926-1945, Nhxb Chính trị quốc gia - Sự thật,2012, tr.160, 162.
- ^ TL 03 C. kho lưu trữ trung ương Đảng
- ^ lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội (1930-2000)
- ^ TL 283 TC/TW ban tổ chức trung ương đảng 25/4/1997
- ^ Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Thành phố Hà Nội Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004, tr.47, 54.
- ^ Bài Trần Quý Kiên - Bí thư Thành ủy Hà Nội 1938 - 1939, Nxb. Hà Nội, đăng ngày 25.1.2016
- ^ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Sơn La, Chi bộ nhà tù Sơn La - giá trị Lịch sử và hiện thực, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr.163.
- ^ Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn tiểu sử (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2007)
- ^ Hồi ký "hạt máu" của đồng chí Trần Bảo nhà xuất bản Lao Động. tr 154
- ^ Tỉnh ủy sơn la "chi bộ nhà tù sơn la giá trị hiện tại và lịch sử " xb 2019. tr 131
- ^ Phó thủ tướng Đặng Việt Châu "trường học cuộc đời" Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1996
- ^ Phó thủ tướng Đặng Việt Châu hồi ký cách mạng "trường học cuộc đời" nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1996.
- ^ Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia .tr78.
- ^ Đại tướng Văn Tiến Dũng "đi theo con đường của Bác" nhà xuất bản quân đội nhân dân 1996. trang 172 174
- ^ Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam. mục 8/1936 thành lập "Ủy ban Sáng Kiến" và mục 11/1937 thành lập "Ủy ban hành động".
- ^ a. Báo điện tử đảng CSVN Tư liệu văn kiện Nguyễn Văn Cừ tiểu sử. Chương 3: Móc nối liên lạc, khôi phục phong trào cách mạng. Phần 1 Lưu trữ 2016-08-21 tại Wayback Machine
- ^ Đảng Cộng sản Việt Nam - Tư Liệu Văn Kiện. Nguyễn Văn Cừ tiểu sử. (NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2007)
- ^ Lịch Sử Biên Niên Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2008.
- ^ a. Lịch Sử Biên Niên Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2008.mục 3/1937. b.Đại tướng Văn Tiến Dũng "từ trong bão táp". nxb quân đội nhân dân 2004. tr 38.
- ^ “b. Báo điện tử đảng CSVN Tư liệu văn kiện Nguyễn Văn Linh tiểu sử. Chương 2 Phần 2: Rèn luyện trưởng thành trong đấu tranh cách mạng. 1931-1945”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2016.
- ^ ban chấp hành đảng bộ công ty xi măng Hải Phòng " lịch sử phong trào công nhân Hải Phòng (1899-2005)" tr104 105.
- ^ hồi ký cách mạng "đi chọn một chặng đường" của đồng chí Chu Thị Kim Sơn nhà xuất bản Lao Động .trang 33 34 35 36 37
- ^ Biên Niên Sử Đảng Cộng sản Việt Nam 11/1937
- ^ a. Đảng bộ thành phố Hà Nội: Dấu ấn qua các kỳ đại hội, Báo Hà Nội mới đăng ngày 01/11/2015; b. Theo trang 160, 162 cuốn Lịch sử Đảng bộ Hà Nội 1926-1945, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật 2012; [1]
- ^ Lịch sử Đảng bộ quận Hà Đông (1926-2010) trang 55.
- ^ Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ. Tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2000. trang 59, 60.
- ^ Tỉnh ủy Ninh Bình- viện Khoa học xã hội Việt Nam "địa chí Ninh Bình" Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2010. Trang 417.
- ^ trang 160, 162 cuốn Lịch sử Đảng bộ Hà Nội 1926-1945, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật 2012
- ^ a. Viện lịch sử Đảng (14/4/2016); b. kho lưu trữ trung ương Đảng(10/10/1952)
- ^ 1).Báo Quân đội nhân dân "làm rõ chi tiết về lịch sử đồng chí Đinh Xuân Nhạ" tác giả Thúy Trường 13/9/2006. 2). "Công văn 13/158 ngày 31/7/1939 'báo cáo về việc khám nhà Đinh Xuân nhạ' Bí thư Thành ủy Hà Nội vào ngày 28/7/1939.". Và công văn số: 17/478 ngày 29/9/1939 của mật thám Pháp về việc khám nhà Đinh Xuân nhạ - Bí Thư Thành ủy Hà Nội vào ngày 26/9/1939.
- ^ "Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội" tập 1 (1926 - 1945) Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội
- ^ cổng giao tiếp điện tử hanoi.gov.vn. mục Trần Quý Kiên (Đinh Xuân Nhạ) Bí thư Thành ủy Hà Nội cuối năm 1938
- ^ “Báo điện tử của Đảng CSVN, Tư liệu văn kiện, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (1926- 2005) Chương II: Xây dựng lực lượng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 (1936 – 8 – 1945)”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2016.
- ^ a. Tư liệu Ban Tổ chức Trung ương Đảng CSVN ( 283 TC/TW 25/4/1997); b. Trang 217-221 Hồi ký "Từ trong bão táp" của Đại tướng Văn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân 1990.tr 221.
- ^ a) Biên niên sự kiện lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La tập 1 (1939 - 1954). trang 36. b) lịch sử đảng bộ huyện Mộc Châu tập 1 (1945 - 2000) Nhà xuất bản Chính trị quốc gia trang 39.
- ^ TL 03C kho lưu trữ trung ương Đảng
- ^ Ban liên lạc kháng chiến Liên Tỉnh Quảng Yên-Hồng Gai-Hải Ninh "Một Thời Chinh Chiến" tập 3. tr170
- ^ Hà Sơn Bình lịch sự kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Nhà xuất bản quân đội nhân dân 1990. trang 156.
- ^ a. Lịch sử Biên niên Đảng CSVN - Tập 3, Mục Năm 1949 (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội - 2009) Lưu trữ 2016-08-21 tại Wayback Machine; b.Bài báo Người bí thư thành ủy buổi "giao thời" - Báo Sự kiện và Nhân chứng (Nguyệt san Báo Quân đội nhân dân), số 272, tháng 8/2016
- ^ Lịch sử Văn phòng Chính phủ 1945 2015. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia trang 63 . Hồ sơ cán bộ 03C kho lưu trữ trung ương Đảng .
- ^ Hồi ký "từ trong bão táp" của đại tướng Văn Tiến Dũng. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1990.tr 38.
- ^ "Câu chuyện về người Đảng viên Cộng sản Hoàng Minh Giám" tác giả đại sứ Hoàng Vĩnh Thành (chánh văn phòng Bộ Ngoại giao).
- ^ Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội "Đảng bộ Hà Nội 90 năm xây dựng và phát triển" nhà xuất bản Hà Nội trang 25.
- ^ Lịch sử Đảng bộ quận Hà Đông (1926-2010). Nhà xuất bản Hà Nội. tr55
- ^ Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954 ). Trung tướng Trần Quyết "Người Cộng sản Trung Kiên "tr 306.
- ^ Bài báo Người bí thư thành ủy buổi "giao thời" - Báo Sự kiện và Nhân chứng (Nguyệt san Báo Quân đội nhân dân), số 272, tháng 8/2016
- ^ “Truy tặng Huân chương Sao vàng cho nguyên Bí thư Thành uỷ Hà Nội”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2019.
- ^ Quyết định số 666/2003/QĐ/CTN.KT/CT ngày 30/9/2003 v/v truy tặng Huân Chương Hồ Chí Minh cho ông Trần Quý Kiên
- ^ Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 73-LCT, truy tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho ông Trần Quý Kiên[liên kết hỏng]